Tiếp
theo Vũ Quần Phương với tập "Thơ với lời bình" (1989), Vũ Nho với hai
tập "Thơ chọn và lời bình" (1993, 1995)..., từ năm 2010 đến 2013 Vũ Bình
Lục có 6 tập "Giai phẩm với lời bình", với hơn 2.000 trang in khổ
14,5cm x 20,5cm, trong đó Vũ Bình Lục đã bình giải hầu như tất cả các
bài thơ được dạy và học trong nhà trường nước ta từ cấp phổ thông cơ sở
đến đại học lâu nay.
Khác với 5 tập trước, tập 6 có
hẳn một tên riêng, là "Hồn Thiền trong thơ Lý -Trần". Tên gọi này đã gợi
cho tập tinh tuyển và bình giải của soạn giả có tính chất chuyên đề hơn
các tập trước.
Trong bài viết này, tôi muốn dừng lại ở tập 6.
Nhìn khái quát, ta có một bản
thống kê, trong tập này, Vũ Bình Lục đã chọn ra 165 bài thơ của 63 tác
giả để bình giải. Ông chia ra: Phần I - Thơ đời Lý có 35 bài của 26 tác
giả, dài 115 trang; Phần II - Thơ đời Trần, có 130 bài của 37 tác giả,
dài 245 trang.
Ngẫm từ tên sách, ta thấy có
hai ý rất rõ: 1. Hồn Thiền, và 2, trong thơ Lý-Trần. Từ sự xác định ấy,
Vũ Bình Lục đã tận dụng thành quả nghiên cứu, tuyển chọn và bình chú của
nhiều nhà biên khảo từ mấy trăm năm trước trên cả mấy phương diện như
thơ ca - văn chương và cả lịch sử - văn hóa... để làm nên tập sách này,
đồng thời, từ một thực trạng đáng buồn - tức là loại sách sưu tập tuyển
chọn, bình giá thơ văn cổ còn lại đến nay cũng không thật nhiều, nên ông
phải tìm thêm tác phẩm mới, tác giả mới mà bàn, mà bình nữa.
Việc tìm thêm này, cố nhiên,
phải theo tiêu chí Hồn Thiền chứ không phải cứ thơ của đại gia thì bài
nào cũng đưa vào sách này mà bình giải cả. Vậy Hồn Thiền là gì? Đến đây,
câu chuyện không đơn giản nữa. Trong bài "Thơ Lý - Trần một kỳ quan rực
rỡ" mở đầu sách, ở đoạn thứ nhất, Vũ Bình Lục khẳng định: "Thơ đời Lý
chủ yếu là thơ Thiền", ở 5 đoạn sau (chiếm 90% dung lượng bài), ông nhắc
lại một số đặc điểm, cũng là thành tựu của thơ đời Trần, như: thể hiện
hào khí anh hùng bất khuất của dân tộc ở mấy mươi năm thịnh Trần và mang
âm điệu trữ tình bản thể... , rồi tâm trạng buồn chán, thất vọng trước
tình trạng triều chính rối ren, nhiễu loạn ở buổi vãn Trần...
Viết bài mở đầu như thế, Vũ
Bình Lục đã như bỏ quên việc giới thuyết khái niệm Hồn Thiền, tạo ra
điểm tựa khoa học cần thiết đối với việc tinh tuyển và bình giải ở sau
đó, đồng thời, ông lại lược giải và bàn nhiều về nguồn gốc xã hội, cảm
hứng thời đại - thời thế mà thơ ca Lý - Trần đã ra đời, như là một cách
gợi dẫn để tìm hiểu về chất Thiền, Hồn Thiền trong thơ ca hai triều đại
này. Nếu coi đó là sự khéo léo có thể được mà vẫn chưa tới của bài mở
đầu này, thì bù lại, soạn giả tỏ ra có dụng ý nói nhiều về xuất thân và
vị thế của các tác giả thơ ca. Từ đó, gợi cho người đọc một suy nghĩ:
Các tăng thống và tín đồ nhà Phật làm thơ, tự nhiên có chất Thiền, Hồn
Thiền là phải, còn các quan gia, quý tộc, tướng lĩnh dạn dày trận mạc
ngoài biên ải sa trường và cả trong cung đình, mà thơ họ cũng thể hiện
Phật pháp, cũng đượm chất Thiền, là sao?
Khả năng gợi dẫn và xui khiến
tưởng tượng, suy luận, đến một lúc nào đó, đến một trình độ nào đó, thì
tạo ra phẩm chất của một cuốn sách, vị thế của một tác giả. Khả năng này
ở Vũ Bình Lục, qua bài khái quát mở đầu sách, là có, nhưng chưa rõ, bởi
như đã nói ở trên, hình như ông có ý né tránh giới thuyết khái niệm Hồn
Thiền mà như chủ tâm phác dựng bối cảnh và kể ra thành tựu chung - nổi
bật của gần 400 năm thơ ca Lý - Trần như viết vài chục trang lược sử một
giai đoạn văn học mà thôi. Có vẻ như ông không ham lí sự?
Vũ Bình Lục đáng chú ý, đáng
bàn hơn là ở tư cách một người làm sách tinh tuyển và bình giải, và đặc
biệt, ở tập "Hồn Thiền trong thơ Lý - Trần" này, là ở cương vị người
dịch thơ nữa (ở 5 tập "Giai phẩm với lời bình" trước, ông không dịch lại
các bài thơ để bình giải). Trong cuốn sách này ông có mấy điểm rất đáng
ghi nhận.
Một là, trong 63 tác giả thơ ca
Lý - Trần tương đối quen thuộc với giới nghiên cứu, bên cạnh các bài
hay, đã được truyền tụng mấy trăm năm nay của họ, ông đã tuyển chọn
thêm. Dùng lại thì dễ hơn, tuyển thêm các bài mới để đặt cạnh các bài
kia mà thấy vẫn là giai phẩm, đấy là đóng góp mới của Vũ Bình Lục. Từ
điểm nhìn là Hồn Thiền, ông chọn Nguyễn Ức đến 15 bài, Trần Nhân Tông 8
bài, Nguyễn Trung Ngạn 10 bài, Chu Văn An 8 bài, Phạm Sư Mạnh 12 bài,
Trần Nguyên Đán 7 bài. Còn với nhiều thi gia khác, ông tán đồng với
những người đi trước mà đưa vào sách những Lý Thái Tông (bài "Truy tán
Pháp vân tự"), Dương Không Lộ (các bài "Ngôn hoài", "Ngư nhàn")... Trần
Minh Tông (các bài "Dạ vũ", "Bạch Đằng giang"...), Lê Quát (các bài
"Tống Phạm Sư Mạnh...", "Thư hoài")... Với sự tinh tuyển mà có bổ sung
có kế thừa như vậy, Vũ Bình Lục đã đưa đến cho người đọc một tập hợp khá
đông đảo và bề thế những tên tuổi mà qua phân tích, bình luận, chúng ta
đã thấy và sẽ biết là họ làm rạng rỡ nền văn chương dân tộc từ một
nguồn thơ Thiền đặc sắc như thế nào.
Hai là, trước khi bình giải 165
bài thơ được chọn vốn đã được nhiều người dịch, in ra trên sách báo
nhiều năm nay, Vũ Bình Lục hầu như đã dịch lại tất cả - số lượng bài ông
dịch để bình giải là 158 bài (thời Lý: 31 bài, thời Trần: 127 bài).
Riêng chuyện dịch này, ông đã có thể xuất bản một tập sách như nhiều
người đã làm.
Thường khi, đọc một tác phẩm
dịch, nếu ai sành ngoại ngữ mà đối chiếu bản gốc (nguyên ngữ) với bản
dịch, thì đều có cả mấy tâm trạng - ý nghĩ, là vừa thán phục dịch giả,
vừa "lấy làm tiếc" vì cho rằng dịch giả dịch chưa hết ý, chưa thoát ý,
thậm chí "là sai"..., lại cũng nảy ra dự kiến dịch lại, dịch tiếp. Nhưng
rồi để đấy. Vũ Bình Lục không như ai mà "để yên đấy". Ông mạnh dạn dịch
lại. Rất may, ông vốn là người làm thơ, cũng sành thơ (Vũ Bình Lục đã
xuất bản 8 tập thơ từ năm 2002 đến năm 2008). Trong công việc dịch thơ
Thiền thời Lý thời Trần này của tác giả "Hồn Thiền trong thơ Lý - Trần",
ta biết là Vũ Bình Lục không chỉ mạnh dạn, không chỉ say mê, không chỉ
vì trách nhiệm của người nghiên cứu - viết sách, mà rõ là có cả một tiềm
năng thẩm thơ, hiểu người và thạo đời nữa. Mức độ của mấy sự thẩm,
hiểu, thạo kia đến đâu, đọc tập sách này của ông ta sẽ biết dần. Ở đây,
tôi chỉ muốn nhấn mạnh: Theo hướng vươn tới mức tín, đạt, nhã, Vũ Bình
Lục đã bước đầu có một cách dịch riêng. Theo đó, các bản dịch thơ Thiền
trong tập sách này của ông đã đem đến cho người đọc những thú vị và tán
đồng trong thế khả dĩ. Có một điểm cũng đáng ghi nhận nữa ở đây là, như
chúng ta biết, 165 bài thơ Lý - Trần này đều được sáng tác mấy trăm năm
trước, theo thể thức cổ (kệ, phú, thơ cách luật...) vốn có cấu tứ linh
hoạt, có cấu trúc nghiêm ngặt... mà Vũ Bình Lục đều chuyển dịch sang thơ
lục bát thuần Việt cả. Đương nhiên, có bài dịch đã đạt đã thành, cũng
có nhiều bài nhiều chữ nhiều cụm từ có thể thay đổi nếu dịch giả và bạn
đọc trực tiếp mạn đàm. Nhưng nhìn chung chuyển được Hồn Thiền bao nhiêu
năm trước về trong khuôn lục bút thuần Việt uyển chuyển mà mượt mà,
khoan hoà mà vụt sáng, thế cũng là đã góp thêm được bao nhiêu phiên bản
với những cách đọc và hiểu các giai phẩm đã định vị như bia đá của người
xưa rồi.
Hẳn là có người không nghĩ như
tôi, đấy cũng là sự thường. Hôm qua, hôm nay, ngày mai, năm sau... sẽ có
người dịch lại các áng thơ Lý - Trần thấm đượm chất Thiền này, đó là
niềm vui chung, trách nhiệm chung của mỗi người trước di sản của tổ tiên
mà mình tự thấy có thể nhuận sắc thêm và giới thiệu được nữa.
Ba là, Vũ Bình Lục chắc đã có
sự phân biệt các công việc bình chú, bình giải, gợi dẫn cách hiểu, phân
tích bình giá... Ông gọi việc mình làm trong tập sách là bình giải. Nhìn
chung, tôi thấy ông nhất quán với sự chọn lựa này ở cả 6 tập sách. Sự
nhất quán được biểu hiện theo một trình tự chung cho mỗi bài bình giải,
là: đoạn đầu - giới thiệu qua về tác giả, về hoàn cảnh ra đời xa - gần
của các tác phẩm, kế đó, là bình giải và giải, hoặc giải và bình như chỉ
nhằm trả lời mấy câu hỏi: Tại sao tác giả viết bài thơ này? Tại sao ông
lại dùng từ rồi ngụ ý như thế? Giá trị riêng của bài ra sao? và thêm kế
vào cuối là đôi dòng liên hệ liên tưởng... Cấu trúc một bài bình giải
như thế, tạo cho người đọc (phổ thông) sự dễ hiểu; nhưng đọc hết bài này
sang bài sau, trang này và mấy chục trang nữa, thì có cảm giác đơn điệu
đơn giản. May mà lời bình lời giải của tác giả cũng thưa thoáng, chỗ
nào tự tiết chế được, thì ổn, đôi chỗ nhiều trang cứ đà cảm hứng mà
viết, thì đã có cơ lặp lại rồi! Lại nói về cảm hứng, Vũ Bình Lục bình
giải về Hồn Thiền chất Thiền trong thơ cổ xưa từ cái nhìn hôm nay của
một người thời trẻ trai là lính trận, suốt tuổi 30, 40, 50 đi dạy học ở
vùng cao, nên có để cho sự dạt dào một cảm hứng riêng, một tâm sự riêng
lan toả vào trang viết cũng là phải.
Vẻ như thể nghiệm, thăm dò, làm
quen, hơn 30 năm trước, Vũ Bình Lục đã có thơ văn in báo. Thấp thoáng
và dè dặt thế, có lúc ngỡ như bị bỏ qua, lãng quên. Thế rồi, từ một sự
tích tụ và quyết chí, chỉ hơn mười năm nay, ông xuất bản liên tục 8 tập
thơ, 1 tập tiểu luận phê bình, 6 tập tinh tuyển bình giải thơ và dịch
thơ, lại còn vài tập còn chờ in nữa... Vũ Bình Lục chí ít đã thể hiện
một quá trình, một cách thức gia nhập làng văn đáng trân trọng: Đó là
chuẩn bị kĩ càng, hăm hở háo hức mà không sốt ruột vội vã...