Chân dung nhà thơ Bút Tre
Cách
đây đúng 100 năm, bên bờ sông Thao (Phú Thọ) đỏ nặng phù sa, cậu bé
Đặng Văn Đăng (SN 1911) cất tiếng khóc chào đời. Và tiếng cười Bút Tre
chính là cái ông Đăng để lại cho đời khi từ biệt 76 năm sau đó. Cái tên
Bút Tre đã trở nên quen thuộc với cái mảnh đất ấy, với kỷ niệm của tuổi
thơ êm đềm.
Trước Cách mạng Tháng
Tám, ông đi dạy học ở Tuyên Quang, rồi về dạy ở quê. Cách mạng Tháng
Tám thành công, ông thoát ly công tác ở Ban Thi đua Khu 10. Sau cải cách
ruộng đất, ông được điều về bộ Ngoại giao làm thư ký cho Bộ trưởng Ung
Văn Khiêm một thời gian, sau đó ông lại về Phú Thọ, làm Trưởng phòng
Thông tin, thuộc Ủy ban Hành chính tỉnh. Đến năm 1962, ông được đề bạt
Trưởng ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ.
Nhà thơ Bút Tre - người tiên phong cho một dòng văn học mới
Nhớ
lại những năm 60 của thế kỷ trước, Đảng ta chủ trương các cuộc vận động
xây dựng đời sống văn hóa mới, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu. Hưởng ứng
cuộc vận động này, nhà xuất bản Phổ thông bấy giờ cho phát hành nhiều
tập sách in các bài diễn ca, văn vần dễ thuộc, dễ nhớ để tuyên truyền.
Chẳng hạn phê phán nạn tảo hôn có bài "Trời mắc oan": "Chuyện đâu có
chuyện nực cười/Chú bé lên mười lấy vợ mười lăm/Nửa đêm vợ bế đi
nằm/Chẳng may chú bé đái dầm ướt chăn/Sáng ra nghe mẹ chữa rằng/Đêm qua
mưa dột ướt thằng con tôi/Chuột kêu rúc rích đầu hồi/Ai gây nên nỗi cho
trời mắc oan".
Trong bối cảnh như
thế, lại là Trưởng ty Văn hóa xông xáo nhiệt tình, ông Đăng cũng rất
hào hứng sáng tác thơ, với bút danh Bút Tre, để tuyên truyền cho các
cuộc vận động ngay tại tỉnh nhà. Ông viết về làng quê trung du đang từng
ngày đổi mới: "Từ sông Lô đến sông Hồng/ Con đò ban sớm, cánh đồng
chiều hôm/ Ngọt khoai, bùi sắn, thơm cơm/ Xanh tươi vườn tược, vàng ươm
ruộng đồng". Hoặc cổ động cho phong trào trồng cây: "Cờ cắm, chữ chăng
khắp nẻo đường/ Trồng cây ai đó hát trong sương…".
Còn
nhớ, làng Vạn Thắng của Bút Tre ngày xưa đường sá chưa có, nên muốn đi
ra ngoài phải qua sông Thao, sang thị xã Phú Thọ, rồi mới có ô tô, tàu
hỏa. Chính điều đó, khiến nhiều nhà thơ cũng từng đặt bút mà sáng tác
những bài thơ về tình yêu quê hương. Bút Tre cũng yêu nó, cũng sáng tác
về nó nhưng cảm nhận bằng cách riêng của chính mình. Cứ như nhiều nhà
thơ nói, người ta thích cái lối thơ của Bút Tre bởi trong ông có cái cảm
nhận tự nhiên mà có cái rất thực…
Ông
Vũ Kim Biên là người nghiên cứu văn hóa dân gian, rất gần gũi với ông
Đăng, hiện còn lưu giữ nhiều bài thơ của ông, nhận xét: "Bút Tre không
bao giờ viết về những điều nhảm nhí và cũng không chủ định làm thơ gây
cười, tuy nhiên ông vốn tính dễ dãi, đôi khi sa vào tự nhiên chủ nghĩa,
viết nhanh, viết một lèo không cần sửa nháp, nên thường mắc vào các lỗi
như: Ngôn ngữ đơn giản, thô mộc, ít tinh tế, còn nhiều lỗi chính tả, ngữ
pháp; thấy vần là ghép làm cho ý thơ chạy lung tung, chuyện nọ xọ
chuyện kia; có câu bí vần, tối nghĩa phải làm chú thích". Chính vì thế,
mặc dù không chủ ý làm thơ gây cười, nhưng một số câu thơ của ông khiến
độc giả khi đọc lên vẫn không nhịn được cười: "Tàu xe đi lại nhịp
nhàng/Thái Nguyên - Yên Bái, lại càng Lào Cai" hoặc: "Đồng Lương- Phú
Lạc, Sai Nga/Bao nhiêu lợn nái, trâu cà bấy nhiêu"… và một số câu khác
không tiện trích ra ở đây. Từ năm 1962, chỉ trong vòng 1- 2 năm, ông đã
sáng tác ba tập: "Quê hương Phú Thọ", "Phú Thọ lớn lên" và "Rừng cọ đồi
chè". Với chức Trưởng ty của ông lúc đó, ông quyết định cho in liền ba
tập thơ. Khi các tập sách ra đời đã bị phê phán kịch liệt. Nhiều ý kiến
từ Trung ương đến tỉnh, yêu cầu phải kiểm điểm rút kinh nghiệm từ công
tác xuất bản, đến nội dung nghệ thuật, chủ yếu là sự non nớt, tùy tiện
trong nghệ thuật thơ Bút Tre.
Nhà thơ rất gần gũi với dân gian
Chị
Vi Thị Lương, con dâu ông, năm nay ngoài 50 tuổi, kể lại: Ngày ông về,
cả nhà ở trong ngôi nhà tuềnh toàng, hai hàng cột, tranh tre nứa lá. Nhà
nghèo có gì ăn nấy. Ông thích nhất là món súp sắn. Nói là súp cho sang,
chứ thực ra là sắn khô giã thành bột, rồi quấy thành cháo. Ốc, trai,
rau cỏ ngoài đồng kiếm được thứ gì, nấu thứ ấy. Cái món súp này ăn một
hai bữa là ngán tận cổ, nhưng không hiểu sao ông vẫn thích.
Khi
về hưu, tài sản duy nhất vị quan tỉnh chở qua sông Thao là sách vở, chủ
yếu sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Có đợt, căn nhà đất lợp lá cọ của ông
Trưởng ty văn hoá đã bị đổ trong một chiều mưa. Vợ chồng chị Lương chỉ
cố gắng mở hòm giữ lấy những trang viết tay của ông Đăng. Sau này, một
bài báo kể về chuyện ấy, ông Trưởng ty văn hoá về hưu đã được tỉnh cho
vay ngói, vay gạch xây nhà. Ông định làm trần nhưng không đủ lực, cuối
cùng đành đóng tạm mấy cây tre, cây xoan, gọi là cho nó kín. Thế nhưng,
cũng vì ngôi nhà ấy, ông Đăng đã phải trả nợ trong 9 năm trời. Chị Lương
kể: "Ông cứ bảo chỉ lo 9 năm không trả được nợ, nhỡ hụt đi không ai trả
cho số tiền ấy. Sau ông em trả xong nợ, ông thoải mái, phấn khởi lắm".
Về
hưu, ông vẫn lao vào công việc rất nhiệt tình. Ông đề xuất với xã mở
công trường làm sơn ta. Cây sơn ta ngày trước có bạt ngàn ở vùng đồi
Đồng Lương, không hiểu sao một thời gian bị phá đi gần hết, nay khôi
phục lại. Khi công việc đã kha khá, ông mời nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn ở sở
Văn hóa về tuyên truyền. Trước khi viết tiểu thuyết "Dốc nắng", nhà văn
Nguyễn Hữu Nhàn đã viết bài ký sự "Ông giáo làng", trong đó có một phần
nói về gia cảnh của ông Đăng. Khi bài bút ký in ra, lãnh đạo tỉnh đã
cảm thông đã yêu cầu ngân hàng cho ông vay tiền làm nhà. Với số tiền
1.500 đồng thời đó, ông đã làm được ngôi nhà mới. Ông nói với mọi người:
"May có thằng nhà văn nó về nói hộ, mới được Nhà nước cho vay, chứ tự
mình xin vay ngại lắm".
Số tiền
ấy ông phải trả dần 9 năm mới hết. Hàng ngày, cứ lúc nào rảnh rỗi, ông
lại đạp xe quanh làng, gặp ai cũng vào thăm nhà, nhưng không ngồi lâu
nhà ai bao giờ, chỉ hai ba phút lại đi ngay. Một lúc ông qua cả chục
nhà. Đồng Lương là làng đồi nên đường nhiều dốc, có lần ông đi xe đạp
xuống dốc thì bị ngã. Nghe nói "bay" đi cả... hàm răng.
Về
chi tiết này, chị Vi Thị Lương có giải thích rằng, đó là chuyện người
ta đồn thế thôi. Lúc ông ngã có văng hàm răng ra thật, nhưng đó là răng
giả, chứ răng thật thì chết. Có một chuyện vui là không biết ông xin ở
đâu về một số cây hồng giống trồng ở vườn, hàng ngày chăm sóc rất kỹ
càng, và khi cây ra quả trông rất đẹp, ông liền làm bài thơ treo ở cổng:
"Nhà anh có một vườn hồng/ Lung linh quả chín, đèn lồng cành tơ/ Cây
hồng như ước như mơ/ Khách qua đường những ngẩn ngơ đứng nhìn/ Ai xem
thì hãy thăm tìm/ Trái hồng như thể trái tim trên đời". Chỉ có điều cái
giống hồng này quả không ăn được vì chát xít, sau đó ông lại phải phá
bỏ. Rồi ông tổ chức đám cưới cho con, cũng có thơ chúc mừng: "Nắng vàng
rực rỡ trước mùa đông/ Trăm họ chung vui việc vợ chồng/ Nhất Phiến -
Lương Duyên đời cộng sản/ Pháo nổ râm ran với rượu nồng…". Anh Phiến
(con trai ông Đăng) và chị Lương có bảo, bây giờ chẳng còn gì nữa, những
nhà nghiên cứu, nhà văn lọc lựa những thứ gì đọc được, lấy được, thì
mang hết đi rồi.
Đã gần 25 năm
ông đi xa, giờ ông thanh thản yên nghỉ ngay trên mảnh đất vườn nhà. Mặc
dù người đời vẫn nhắc tên ông, có thể họ vẫn gán cho ông đủ thứ để gây
cười, nhưng chắc là ông không bận tâm, bởi cuộc đời ông là hiện thân của
niềm vui sống, với một phong cách đơn giản đến xuề xòa, nhưng trong suy
nghĩ thì ông luôn chân thành và nghiêm túc.
(Theo doisongphapluat.com)