Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Tin tức    Tin tổng hợp
Thứ tư, 09/10/2013 08:46
Sự thật về nỗi "hàm oan" của nhà thơ Bút Tre
Bút Tre - Đặng Văn Đăng - người tiên phong cho một hướng đi ngược lại với văn chương hàn lâm, bác học trả lại cho văn hóa dân gian cái chân chất vốn có của ngàn năm thôn quê, mộc mạc mà dễ nhớ. Ấy thế mà, có thời gian, ông Đăng đã ôm nỗi oan lớn lắm…
Chân dung nhà thơ Bút Tre

Cách đây đúng 100 năm, bên bờ sông Thao (Phú Thọ) đỏ nặng phù sa, cậu bé Đặng Văn Đăng (SN 1911) cất tiếng khóc chào đời. Và tiếng cười Bút Tre chính là cái ông Đăng để lại cho đời khi từ biệt 76 năm sau đó. Cái tên Bút Tre đã trở nên quen thuộc với cái mảnh đất ấy, với kỷ niệm của tuổi thơ êm đềm.

Trước Cách mạng Tháng Tám, ông đi dạy học ở Tuyên Quang, rồi về dạy ở quê. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông thoát ly công tác ở Ban Thi đua Khu 10. Sau cải cách ruộng đất, ông được điều về bộ Ngoại giao làm thư ký cho Bộ trưởng Ung Văn Khiêm một thời gian, sau đó ông lại về Phú Thọ, làm Trưởng phòng Thông tin, thuộc Ủy ban Hành chính tỉnh. Đến năm 1962, ông được đề bạt Trưởng ty Văn hóa tỉnh Phú Thọ.

Nhà thơ Bút Tre - người tiên phong cho một dòng văn học mới

Nhớ lại những năm 60 của thế kỷ trước, Đảng ta chủ trương các cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mới, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu. Hưởng ứng cuộc vận động này, nhà xuất bản Phổ thông bấy giờ cho phát hành nhiều tập sách in các bài diễn ca, văn vần dễ thuộc, dễ nhớ để tuyên truyền. Chẳng hạn phê phán nạn tảo hôn có bài "Trời mắc oan": "Chuyện đâu có chuyện nực cười/Chú bé lên mười lấy vợ mười lăm/Nửa đêm vợ bế đi nằm/Chẳng may chú bé đái dầm ướt chăn/Sáng ra nghe mẹ chữa rằng/Đêm qua mưa dột ướt thằng con tôi/Chuột kêu rúc rích đầu hồi/Ai gây nên nỗi cho trời mắc oan".

Trong bối cảnh như thế, lại là Trưởng ty Văn hóa xông xáo nhiệt tình, ông Đăng cũng rất hào hứng sáng tác thơ, với bút danh Bút Tre, để tuyên truyền cho các cuộc vận động ngay tại tỉnh nhà. Ông viết về làng quê trung du đang từng ngày đổi mới: "Từ sông Lô đến sông Hồng/ Con đò ban sớm, cánh đồng chiều hôm/ Ngọt khoai, bùi sắn, thơm cơm/ Xanh tươi vườn tược, vàng ươm ruộng đồng". Hoặc cổ động cho phong trào trồng cây: "Cờ cắm, chữ chăng khắp nẻo đường/ Trồng cây ai đó hát trong sương…".

Còn nhớ, làng Vạn Thắng của Bút Tre ngày xưa đường sá chưa có, nên muốn đi ra ngoài phải qua sông Thao, sang thị xã Phú Thọ, rồi mới có ô tô, tàu hỏa. Chính điều đó, khiến nhiều nhà thơ cũng từng đặt bút mà sáng tác những bài thơ về tình yêu quê hương. Bút Tre cũng yêu nó, cũng sáng tác về nó nhưng cảm nhận bằng cách riêng của chính mình. Cứ như nhiều nhà thơ nói, người ta thích cái lối thơ của Bút Tre bởi trong ông có cái cảm nhận tự nhiên mà có cái rất thực…

Ông Vũ Kim Biên là người nghiên cứu văn hóa dân gian, rất gần gũi với ông Đăng, hiện còn lưu giữ nhiều bài thơ của ông, nhận xét: "Bút Tre không bao giờ viết về những điều nhảm nhí và cũng không chủ định làm thơ gây cười, tuy nhiên ông vốn tính dễ dãi, đôi khi sa vào tự nhiên chủ nghĩa, viết nhanh, viết một lèo không cần sửa nháp, nên thường mắc vào các lỗi như: Ngôn ngữ đơn giản, thô mộc, ít tinh tế, còn nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp; thấy vần là ghép làm cho ý thơ chạy lung tung, chuyện nọ xọ chuyện kia; có câu bí vần, tối nghĩa phải làm chú thích". Chính vì thế, mặc dù không chủ ý làm thơ gây cười, nhưng một số câu thơ của ông khiến độc giả khi đọc lên vẫn không nhịn được cười: "Tàu xe đi lại nhịp nhàng/Thái Nguyên - Yên Bái, lại càng Lào Cai" hoặc: "Đồng Lương- Phú Lạc, Sai Nga/Bao nhiêu lợn nái, trâu cà bấy nhiêu"… và một số câu khác không tiện trích ra ở đây. Từ năm 1962, chỉ trong vòng 1- 2 năm, ông đã sáng tác ba tập: "Quê hương Phú Thọ", "Phú Thọ lớn lên" và "Rừng cọ đồi chè". Với chức Trưởng ty của ông lúc đó, ông quyết định cho in liền ba tập thơ. Khi các tập sách ra đời đã bị phê phán kịch liệt. Nhiều ý kiến từ Trung ương đến tỉnh, yêu cầu phải kiểm điểm rút kinh nghiệm từ công tác xuất bản, đến nội dung nghệ thuật, chủ yếu là sự non nớt, tùy tiện trong nghệ thuật thơ Bút Tre.

Nhà thơ rất gần gũi với dân gian

Chị Vi Thị Lương, con dâu ông, năm nay ngoài 50 tuổi, kể lại: Ngày ông về, cả nhà ở trong ngôi nhà tuềnh toàng, hai hàng cột, tranh tre nứa lá. Nhà nghèo có gì ăn nấy. Ông thích nhất là món súp sắn. Nói là súp cho sang, chứ thực ra là sắn khô giã thành bột, rồi quấy thành cháo. Ốc, trai, rau cỏ ngoài đồng kiếm được thứ gì, nấu thứ ấy. Cái món súp này ăn một hai bữa là ngán tận cổ, nhưng không hiểu sao ông vẫn thích.

Khi về hưu, tài sản duy nhất vị quan tỉnh chở qua sông Thao là sách vở, chủ yếu sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Có đợt, căn nhà đất lợp lá cọ của ông Trưởng ty văn hoá đã bị đổ trong một chiều mưa. Vợ chồng chị Lương chỉ cố gắng mở hòm giữ lấy những trang viết tay của ông Đăng. Sau này, một bài báo kể về chuyện ấy, ông Trưởng ty văn hoá về hưu đã được tỉnh cho vay ngói, vay gạch xây nhà. Ông định làm trần nhưng không đủ lực, cuối cùng đành đóng tạm mấy cây tre, cây xoan, gọi là cho nó kín. Thế nhưng, cũng vì ngôi nhà ấy, ông Đăng đã phải trả nợ trong 9 năm trời. Chị Lương kể: "Ông cứ bảo chỉ lo 9 năm không trả được nợ, nhỡ hụt đi không ai trả cho số tiền ấy. Sau ông em trả xong nợ, ông thoải mái, phấn khởi lắm".

Về hưu, ông vẫn lao vào công việc rất nhiệt tình. Ông đề xuất với xã mở công trường làm sơn ta. Cây sơn ta ngày trước có bạt ngàn ở vùng đồi Đồng Lương, không hiểu sao một thời gian bị phá đi gần hết, nay khôi phục lại. Khi công việc đã kha khá, ông mời nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn ở sở Văn hóa về tuyên truyền. Trước khi viết tiểu thuyết "Dốc nắng", nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã viết bài ký sự "Ông giáo làng", trong đó có một phần nói về gia cảnh của ông Đăng. Khi bài bút ký in ra, lãnh đạo tỉnh đã cảm thông đã yêu cầu ngân hàng cho ông vay tiền làm nhà. Với số tiền 1.500 đồng thời đó, ông đã làm được ngôi nhà mới. Ông nói với mọi người: "May có thằng nhà văn nó về nói hộ, mới được Nhà nước cho vay, chứ tự mình xin vay ngại lắm".

Số tiền ấy ông phải trả dần 9 năm mới hết. Hàng ngày, cứ lúc nào rảnh rỗi, ông lại đạp xe quanh làng, gặp ai cũng vào thăm nhà, nhưng không ngồi lâu nhà ai bao giờ, chỉ hai ba phút lại đi ngay. Một lúc ông qua cả chục nhà. Đồng Lương là làng đồi nên đường nhiều dốc, có lần ông đi xe đạp xuống dốc thì bị ngã. Nghe nói "bay" đi cả... hàm răng.

Về chi tiết này, chị Vi Thị Lương có giải thích rằng, đó là chuyện người ta đồn thế thôi. Lúc ông ngã có văng hàm răng ra thật, nhưng đó là răng giả, chứ răng thật thì chết. Có một chuyện vui là không biết ông xin ở đâu về một số cây hồng giống trồng ở vườn, hàng ngày chăm sóc rất kỹ càng, và khi cây ra quả trông rất đẹp, ông liền làm bài thơ treo ở cổng: "Nhà anh có một vườn hồng/ Lung linh quả chín, đèn lồng cành tơ/ Cây hồng như ước như mơ/ Khách qua đường những ngẩn ngơ đứng nhìn/ Ai xem thì hãy thăm tìm/ Trái hồng như thể trái tim trên đời". Chỉ có điều cái giống hồng này quả không ăn được vì chát xít, sau đó ông lại phải phá bỏ. Rồi ông tổ chức đám cưới cho con, cũng có thơ chúc mừng: "Nắng vàng rực rỡ trước mùa đông/ Trăm họ chung vui việc vợ chồng/ Nhất Phiến - Lương Duyên đời cộng sản/ Pháo nổ râm ran với rượu nồng…". Anh Phiến (con trai ông Đăng) và chị Lương có bảo, bây giờ chẳng còn gì nữa, những nhà nghiên cứu, nhà văn lọc lựa những thứ gì đọc được, lấy được, thì mang hết đi rồi.

Đã gần 25 năm ông đi xa, giờ ông thanh thản yên nghỉ ngay trên mảnh đất vườn nhà. Mặc dù người đời vẫn nhắc tên ông, có thể họ vẫn gán cho ông đủ thứ để gây cười, nhưng chắc là ông không bận tâm, bởi cuộc đời ông là hiện thân của niềm vui sống, với một phong cách đơn giản đến xuề xòa, nhưng trong suy nghĩ thì ông luôn chân thành và nghiêm túc.                    




(Theo doisongphapluat.com)

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)