Luật pháp và lòng nhân - nền tảng của sự hưng thịnh thời nhà Lý
Sau khi ổn định đất nước, để duy trì quyền lực và quản lý xã hội, các vị vua nhà Lý rất chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp. Đặc biệt là năm 1042 vua Lý Thái Tông đã xuống chiếu cho Trung thư sảnh san định sách luật: “Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm trước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng…”. Nhà Lý đã giao cho Bộ Hình và Thẩm hình viện phụ trách các vấn đề về pháp luật. Đảm nhận chức vụ này thường là Á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường hợp, vua đích thân xử án. Có thể thấy vua Lý Thái Tông đã nhận thấy những hạn chế trong phương pháp trị nước trước kia, nhìn thấy những oan sai, những kết cục đau lòng trong việc xử kiện trước đó, từ đó ông định ra việc san định luật Hình thư. Đây thực sự là một bước tiến trong sự phát triển về tư duy quản lý đất nước của nhà Lý.
Luật Hình thư có nhiều điều khoản bao quát các mặt đời sống chính trị, xã hội đất nước, từ những quy định về bộ máy nhà nước, chế độ quan lại, triều đình đến các vấn đề thuế khoá, hôn nhân và gia đình. Mục đích của việc san định luật là để bảo vệ thể chế, quyền hành của nhà Lý, bảo vệ triều đình, hoàng tộc và người dân. Để bảo vệ triều đình và chế độ, nhà Lý ban hành nhiều lệnh cấm. Cấm hoạn quan không được vào cung cấm. Các quan lại làm việc trong triều không được tự do đi lại với các vương hầu, không được tụ họp đông người để bàn bạc, chê bai nói xấu triều đình… Những lệnh cấm đó nhằm bảo vệ sự an toàn cho hoàng tộc, đồng thời chống sự liên kết, bè phái trong triều đình làm mất trật tự trong hoàng cung.
Luật pháp nhà Lý có nhiều điều khoản cụ thể bảo vệ tính mạng và tải sản của nhân dân. Dưới thời vua Lý Nhân Tông ban hành lệnh cấm người dân không được dùng gậy, tre, gỗ và đồ sắc nhọn để đánh nhau, nếu đánh chết người thì bị phạt 100 trượng, thích 5 chữ vào mặt và bị đồ làm khao giáp. Luật cũng quy định tội trộm cắp lúa và sản vật của nhân dân sẽ bị xử phạt 100 trượng, nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu. Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trượng và thích 30 chữ. Đồng thời luật pháp cũng bảo vệ lực lượng lao động chủ yếu của đất nước là dân đinh, không được mua bán hoàng nam làm nô bộc trong các gia đình quyền quý, nếu vi phạm sẽ bị đánh 100 trượng và thích 20 – 50 chữ. Luật pháp cũng quy định không được lấy quân binh từ những nhà cô độc, ít người… Qua đây thể hiện lòng nhân ái, thương dân của các vị vua nhà Lý, là cái gốc của tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Trong sản xuất nông nghiệp, luật pháp quy định nghiêm ngặt về việc bảo vệ sức kéo trong nông nông nghiệp: những kẻ phạm tội ăn cắp hoặc giết trộm trâu bò của nhân dân sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. “Năm 1117, nhà vua ban lệnh cấm giết trâu bò… kẻ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (chăn nuôi tằm) và phải bồi thường trâu….”. Đặc biệt, chế độ tư hữu về ruộng đất bắt đầu xuất hiện và được nhà nước thừa nhận. Lý Anh Tông quy định ra phép chuộc ruộng và nhận ruộng, theo đó ruộng cầm đợi trong 20 năm được chuộc; tranh nhau ruộng đất trong vòng 5 năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Ruộng đã bán có khế ước thì không được chuộc, ai trái lệnh sẽ bị đánh 80 trượng. Nếu khi tranh chấp ruộng ao mà dùng binh khí đánh người gây tử thương thì cũng bị xử đánh 80 trượng, bị tội đồ và phải trả ruộng cho người bị tử thương.
Pháp luật nhà Lý cũng quy định 10 loại trọng tội (thập ác)đó là: Mưu phản: làm nguy xã tắc; Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết; Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc; Ác nghịch: đánh giết ông bà, cha mẹ; Bất đạo: giết người vô tội; Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua; Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà, cha mẹ; Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần; Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng; Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha. Đây là những tội không thể dung tha. Ngoài những tội trên thì có thể dùng tiền để chuộc, tùy theo tội nặng nhẹ thì nộp tiền với mức độ nhiều ít khác nhau.
Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý. Dù có nhiều điều khoản nghiêm khắc nhưng luật Hình thư vẫn có nhiều điểm “nhân ái, khoan dung”. Các vị vua nhà Lý đã biết kết hợp giữa trị nước bằng luật pháp với lòng nhân. Đó là một trong những lý do đưa đất nước Đại Việt có một khoảng thời gian dài ổn định, thịnh trị dưới thời nhà Lý.
Dương Minh
Nhà xuất bản Hà Nội