Phủ Tây Hồ - chốn linh thiêng giữa Hồ Tây - Hà Nội
Nếu hồ Tây là đất thiêng liêng của Thăng Long thì ấp Tây Hồ là đất thiêng của hồ Tây. Ấp Tây Hồ là trung tâm của hồ Tây, là nơi có không gian kiến trúc liên hoàn nổi tiếng với đình Tây Hồ, chùa Tây Hồ, đền Kim Ngưu, đền Bảo Khánh, phủ Tây Hồ, văn chỉ huyện Vĩnh Thuận. Rất tiếc văn chỉ huyện Vĩnh Thuận, đền Kim Ngưu đã bị huỷ hoại hoàn toàn, nay mới xây lại.
Phủ Tây Hồ hiện nay nổi tiếng trong cả nước bởi sự linh thiêng và phong cảnh tuyệt vời của nơi đây. Biết bao trang sử viết về Tây Hồ, biết bao thơ phú vịnh về Tây Hồ, biết bao truyền thuyết nói về Tây Hồ. Mỗi truyền thuyết của Tây Hồ đều gắn liền với một di tích cụ thể, làm chúng ta tin theo và tôn sùng nền văn hoá vật thể và phi vật thể ở đây. Truyền thuyết diệt hồ ly tinh còn thể hiện ở chùa Thiên Niên và Trấn Vũ Quán. Truyền thuyết Trâu Vàng còn chứng nghiệm bởi đền Kim Ngưu. Truyền thuyết Đạo sĩ Mục Thận cứu vua còn lưu lại ở đền Võng Thị. Truyền thuyết Trạng Bùng Khắc Khoan du chơi hồ Tây gặp Liễu Hạnh công chúa ở ấp Tây Hồ càng in đậm ở phủ Tây Hồ.
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về tứ bất tử, về Mẫu Liễu Hạnh và phủ Tây Hồ. Người đi tiên phong trong việc tạo thần là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Với ngòi bút tài hoa của mình, Hồng Hà nữ sĩ làm cho mọi người tin Trạng Bùng gặp tiên ở hồ Tây là thực: Vào một ngày hè đẹp trời, Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, Cử nhân họ Ngô và Tú tài họ Lý lãng đãng đi chơi hồ Tây. Ba vị say sưa ngắm cảnh, uống rượu, ngâm thơ. Họ cứ theo bờ bên đông mà đi, chẳng bao lâu đã đến ấp Tây Hồ. Từ xa hiện ra lâu đài mờ ảo lẫn trong sương nào khác bồng lai tiên cảnh. Trước lâu đài đề bốn chữ “Tây Hồ phong nguyệt” (gió trăng Tây Hồ). Vừa hay có một mỹ nữ mặc áo hồng hiện ra mời chào khách vào thăm quán, thưởng thức món cá đặc sản của Tây Hồ. Hỏi ra Trạng Bùng biết đây là quán của Liễu Hạnh công chúa. Họ vào quán và được chủ tươi cười niềm nở đón tiếp, cùng nhau ngâm vịnh đến khuya mới chịu chia tay.
Vài tháng sau, thày trò Trạng Bùng lại đến ấp Tây Hồ nhưng không thấy lâu đài nhà cửa gì cả, chỉ thấy hồ nước mênh mang, trúc reo, liễu rủ. Họ chợt tỉnh ngộ vài tháng trước đã gặp tiên, tỏ ra luyến tiếc vô cùng.
Chuyện gặp tiên, nhớ tiên cho xây lầu Vọng Tiên đã có tiền lệ từ thời Lê Thánh Tông. Nay họ Phùng gặp tiên nhớ tiên cho xây phủ Tây Hồ là học theo người trước mà thôi.
Các tư liệu Hán Nôm hiện có ở phủ Tây Hồ như bia đá, chuông, sắc phong, hoành phi, câu đối cũng chỉ xuất hiện vào cuối thời Nguyễn mà thôi. Có điều các bia đá không nói gì đến phủ mà chỉ nói đến văn chỉ huyện Vĩnh Thuận, chùa Hoằng Ân, đền Bảo Khánh. Quả chuông có niên đại Duy Tân thứ sáu (1912) được treo ở phủ đề: Bảo Khánh từ chung (chuông chùa Bảo Khánh). Hai tấm bia đá dựng ở trong phủ cũng có tiêu đề:
Bảo Khánh bản tôn chư tộc gia tiên công liệt vị
Bài vị các cụ tổ dòng họ của thôn Bảo Khánh, tạo năm 1928.
Bảo Khánh thôn linh từ bi hậu ký
Bài ký bia hậu thần đền thôn Bảo Khánh, tạo năm 1937.
Như vậy, phủ Tây Hồ cũng là đền Bảo Khánh chăng? Nếu không vì sao các cụ tổ của làng lại được thờ ở đây. Cũng có khả năng năm 1947 giặc Pháp thiêu huỷ cả làng Tây Hồ, sau dân làng xây dựng lại phủ nên đã đưa bài vị tổ tiên vào thờ chung ở phủ.
Về mặt kiến trúc phủ Tây Hồ hoàn toàn mang phong cách hiện đại, chất liệu bê tông giả gỗ. Phủ chia làm hai toà riêng biệt.
Phủ chính
Phủ chính gồm một toà nhà nối liền nhưng được chia làm ba theo kiểu chữ tam. Tiền tế thờ công đồng, trung tế thờ vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế và Tam toà Thánh Mẫu (thờ tượng). Ba vị thánh mẫu là Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải.
Theo quan niệm Tam phủ thì: Cai quản Thiên Phủ có Thiên quan, Thiên quan tích phúc (ban phúc lộc cho con người). Cai quản Đại phủ có Địa quan, Địa quan xá tội (xá bỏ tội lỗi cho con người). Cai quản Thuỷ Phủ có Thuỷ quan, Thuỷ quan giải ách (cởi bỏ mọi chướng ngại khó khăn cho con người).
Với sức mạnh thần bí ban phúc, xá tội, giải ách, tín ngưỡng Tam phủ quả hấp dẫn với bất cứ ai.
Hơn nữa tín ngưỡng Tam phủ đều tôn thờ vua cha Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng là vị thần tối cao trên Thiên đình cai quản tam giới, cai quản bách thần. Táo phủ Thần quân là thần theo dõi việc làm thiện ác của từng người, từng hộ. Hàng tháng vào ngày cuối, Táo thần lại lên tâu với Ngọc Hoàng về hành tung của từng người trong tháng. Nam Tào, Bắc Đẩu có nhiệm vụ ghi lại, theo dõi, đệ trình lên Ngọc Hoàng để ban thưởng cho người nào làm việc thiện, trừng trị kẻ nào gây tội ác.
Ngọc Hoàng uy nghiệm là thế, nhưng với tâm linh của người tín ngưỡng Tam phủ thì Ngọc Hoàng cũng có xương có thịt, có vợ có con. Vợ Ngọc Hoàng là Tây Vương Mẫu. Con Ngọc Hoàng là Liễu Hạnh Công chúa. Do đánh vỡ chén ngọc mà con gái út của Ngọc Hoàng bị đày xuống làm dân thường ở làng Vân Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nước Đại Việt để tu luyện. Sau do luyến tiếc cảnh đẹp nước Nam, nàng lại lẻn xuống trần gian để thưởng ngoạn, khi ở Quảng Bình, Nghệ An, lúc ở Thanh Hoá, Lạng Sơn, cuối cùng nàng đam mê phong cảnh Tây Hồ hơn bất cứ ai.
Bởi vậy ở phủ chính còn có biển đề:
Tây Hồ hiển tích
Hiển tích ở Tây Hồ
Hay:
Tây Hồ phong nguyệt
Gió trăng Tây Hồ
Gió trời, trăng trời và cũng chỉ có người trời như Liễu Hạnh mới cảm nhận hết cái thi vị của gió trăng ở đây. Nàng luyến tiếc trần gian, luyến tiếc người và cảnh Tây Hồ nên thường xuyên trắc, giáng (lên, xuống). Phủ Tây Hồ là phủ đệ của nàng, cũng là nơi giao hoà giữa đất trời. Câu đối nôm ở phủ nói rõ:
Thơ hoạ Tây Hồ, thần nữ vang lừng ba bẩy cõi
Danh truyền Nam sử, dấu tiên rực rỡ mấy ngàn thu
Các nhà nghiên cứu về Tam phủ, về Mẫu thường muốn truy nguyên. Vậy Mẫu tên tuổi là gì, quê quán ở đâu, đời sống riêng tư ra sao, hiển thánh như thế nào… xin hãy xem câu đối:
Tối linh nhi linh, Thiên Bản hồi hoàn chân cảnh tịnh
Chúng mẫu chi mẫu, Tây Hồ hương hoả biệt từ tôn.
Tạm dịch:
Linh thiêng của linh, Thiên Bản trang hoàng tiên phủ đệ
Mẫu trong các mẫu, Tây Hồ hương hoả chốn từ tôn.
Tìm về quê gốc của Mẫu, kỳ thực vùng này do Sùng thượng Thiên tiên Liễu Hạnh, con gái út của Ngọc Hoàng mà có tên là Vân Hương, Thiên Bản, Thiên Hương… Tất cả những danh từ đó đã tính từ hoá, nó đã quy về hư vô, quy về mây gió, quy về cái gốc của vạn vật. Chúng ta không tốn sức đi tìm người thực vì không hề có. Có chăng nhân vật được tạo nên trong tiểu thuyết của Đoàn Thị Điểm mà thôi.
Bài thơ bên trái phủ chính nói rõ về thân thế của Mẫu:
Vân tác y tường phong tác xa
Chiêu du Đâu Xuất mộ yên hà
Nhân gian dục thức ngô danh tính
Nhất đại tiên nhân ngọc kinh hoa.
Tạm dịch:
Mây là áo gió là xe
Sáng chơi Đâu Suất chiều mê yên hà
Người đời muốn hỏi tên ta?
Quỳnh Hoa tiên nữ mờ xa Thiên Đình.
Điện Sơn Trang
Điện Sơn Trang mới được xây bằng chất liệu bê tông giả gỗ làm theo kiểu chồng diêm hai tầng mái ngói. Tầng trên thờ Phật và Tam toà Thánh Mẫu, tầng dưới thờ Mẫu Thượng Ngàn và 24 cô sơn trang. Nói là Điện Sơn Trang nhưng thực ra đây là nơi thờ Phật. Phật tức Tiên, Tiên tức Phật. Quan niệm dân gian Việt Nam là thế. Họ coi Tiên, Phật là một, đều là các vị thần tối linh bất tử, cứu giúp con người. Tiên cuối cùng cũng quy về Phật. Nội đao tràng và các thần tích về Mẫu Liễu đều nói: Mẫu Liễu Hạnh được Phật Bà Quan Âm cứu đưa về chùa Hương, quy Phật!
Điện Sơn Trang không nên hiểu đơn thuần là nơi thờ Mẫu Thượng Ngàn. Mà điện Sơn Trang ở phủ Tây Hồ nếu suy rộng ra là sơn lâm nước Việt, thu nhỏ lại là núi non Hương Tích, núi non Tây Hồ. Tiên, Phật bao giờ cũng gắn với non xanh nước biếc linh thiêng, giang sơn kỳ tú. Chính vì thế ở các phủ, các điện có thờ Phật cũng là điều dễ hiểu.
“Tháng Tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”. Cha là Trần Hưng Đạo, mẹ là Liễu Hạnh Công chúa. Cha và mẹ là cha mẹ trong tâm linh tôn giáo, không nên hiểu theo nghĩa dung tục.
Hàng năm cứ vào ngày mồng 3 tháng 3 và 13 tháng 8 âm lịch, tại phủ Tây Hồ đều mở hội tế lễ. Lễ hội này đã có từ xưa, mấy năm gần đây càng trở nên hưng thịnh. Có thể nói lượng người đến cầu khấn, thăm viếng tại phủ ngày càng nhiều, không lúc nào ngừng.
Phủ Tây Hồ cùng với phủ Giầy ở Nam Định, đền Sòng ở Thanh Hoá, đền Bắc Lệ ở Lạng Sơn và các đền Tam toà Thánh Mẫu ở các chùa được xây dựng để tôn thờ Tam Phủ, tôn thờ ba vị Thánh Mẫu. Ba vị Thánh Mẫu tuy ba mà một, đấy chỉ là hoá thân của Mẫu Liễu mà thôi. Mẫu Liễu là một Thiên tiên, một nhân vật hư cấu không có thật. Mẫu trở nên linh thiêng hơn qua cách nhìn của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, linh thiêng hơn bởi chúng ta ai cũng mong làm điều thiện, bỏ điều ác, cầu khấn trước Mẫu, trước tâm linh hư vô của mình, mong được ban phúc, xá tội, giải ách.
Phủ Tây Hồ đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích Lịch sử - Văn hóa ngày 13 tháng 2 năm 1996. Ngoài ra, tại sân phủ có một cây si cổ thụ cũng đã được công nhận là "cây di sản Việt Nam", và ở kề bên phủ còn có đền Kim Ngưu thờ Trâu Vàng theo truyền thuyết.
Trần Dũng tổng hợp