Đôi nét về sông Thiên Phù trong tư liệu cổ
Sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên đầu Thế kỷ XIV có viết: “Thời nhà Đường (723 – 739), Thứ sử Quảng Châu là Lư Ngư lúc ấy đang đô hộ nước ta, đóng quân tại An Điền (khoảng giữa hai Huyện Long Đỗ và Từ Liêm) thấy đất này bằng phẳng rộng rãi, cỏ cây tươi tốt, phía sau có Sông Già La (Sông Thiên Phù) địa thế rất đẹp. Lư Ngư bèn sai lập phủ huyện và lập đền thờ Huyền Nguyên Đế Quân. Một đêm, Lư Ngư nằm mộng, thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đến bảo rằng: Quán này nên đặt là Khai Nguyên, thôn này cũng đổi là Khai Nguyên. Lư Ngư thức dậy cả sợ bèn theo lời thần mộng đặt lại tên thôn, tên quán và dựng bia xây miếu thờ”.
Trong bản đồ vẽ thành Trung Đô thời Hồng Đức (nửa cuối thế kỷ XV) và một số bản đồ thời Lê Trung hưng vẫn còn thấy sông Thiên Phù. Trong bài minh khắc trên tấm bia đá Vĩnh Tộ ngũ niên (1623) tại làng Võng Thị cũng có câu: Tích hồ khâm giang (Mặt hồ là chiếu, dòng sông là dải áo) để nói lên hình thế hồ Tây và sông Thiên Phù ở vùng này.
Trong bài minh khắc trên tấm bia đá Vĩnh Tộ ngũ niên (1623) tại Làng Võng Thị vùng Bưởi cũng có câu: “Tích hồ khâm giang” (Mặt hồ là chiếu, dòng sông là giải áo) để nói lên hình thế Hồ Tây và Sông Thiên Phù ở vùng này. Vào năm Cảnh Hưng (1747), chúa Trịnh đã ra lệnh chỉ cho Làng Bái Ân được canh tác trên các khoảng ao và ruộng trũng vốn là Sông Thiên Phù lấy hoa lợi phụng sự Thành hoàng. Đó chính là thời dòng Sông Thiên Phù bị lấp.
Như vậy đầu thế kỷ XVII sông Thiên Phù vẫn tồn tại nhưng không rõ nó còn rộng như thời Lý. Tới đầu thế kỷ XX, sông Thiên Phù đã không còn, vết tích chỉ là những ruộng sâu chạy từ Phú Xá xuống Bái Ân, Yên Thái.
Vũ Minh