Giới thiệu Thể loại sách Sách điện tử Bạn đọc và NXB Các bài viết Kế hoạch đề tài Giao lưu trực tuyến Thư viện ảnh Thư viện Video
Tin tổng hợp Tin dự án Tin mới
Trang chủ     Tin tức    Tin tổng hợp
Thứ sáu, 16/08/2013 08:14
Tranh kiếng Nam bộ trở lại sau nửa thế kỷ
Tiếp nhận kỹ thuật vẽ tranh kiếng của người Hoa (Chợ Lớn) từ đầu thế kỷ 20, các lò và làng tranh kiếng Việt Nam lần lượt xuất hiện ở Lái Thiêu (Bình Dương), Mỹ Tho, Gò Công (Tiền Giang), Chợ Mới (An Giang) và cộng đồng Khmer (miền Tây Nam bộ). Khoảng một thế kỷ qua, tranh kiếng (vẽ/ khảm/ in lên kính) đã hiện diện phổ biến và phổ quát nhu cầu trang trí trong việc thờ phụng, lễ tết, sinh hoạt của người dân Nam bộ.

   
Tranh trấn trạch Wit-so-wan của nghệ nhân Mã Thị Dương, với triết lý, bố cục, màu sắc đậm phong cách Khmer.

Xét về trưng bày đại chúng thì triển lãm Tranh kiếng Nam bộ khai mạc lúc 9g ngày 18.8 tại chùa Phật học Xá Lợi (89 Bà Huyện Thanh Quan, TP.HCM) là lần thứ hai trong lịch sử. Lần thứ nhất diễn ra hồi năm 1957 (cách đây 56 năm), tại phòng Thông tin đô thành Sài Gòn, do hoạ sĩ Vạn Huê (Trương Cung Vinh) tổ chức. Triển lãm lần này chỉ diễn ra trong bốn ngày, chọn giới thiệu khoảng 100 bức từ khoảng 1.600 bức mà các nhà sưu tập Lý Lược Tam, Nguyễn Anh Kiệt, Nguyễn Đại Phúc, Huỳnh Duy Thiết, Huỳnh Thanh Bình... sưu tầm được.

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình thì tranh kiếng ra đời ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ 18, đặc biệt tại Quảng Đông, khi mà kỹ thuật làm kiếng đã đến mức độ hoàn chỉnh. Tranh kiếng (du hoạ) kế thừa kỹ thuật từ tranh sơn mài (tất hoạ), từ kỹ thuật khảm chạm, khắc gỗ, in mộc bản, sau đó phát triển mạnh hơn vì chất liệu này rẻ, dễ làm và làm nhanh. Tại Việt Nam, tranh kiếng đã xuất hiện trong các trang trí cung đình, thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị…; nhưng để đi vào đời sống người Việt thì phải đến đầu thế kỷ 20.

Nhìn lại quan niệm cấu thành tư tưởng và thẩm mỹ tranh kiếng, rõ ràng nó vẫn đi theo dòng chính của truyền thống tranh pháo, khảm chạm, in ấn trước đó. Chợ Lớn, Lái Thiêu… đậm nét phong cách thờ phụng, trang trí của người Hoa; Mỹ Tho, Gò Công, Chợ Mới… thì theo phong cách thờ phụng, trang trí đã được “Việt hoá gốc Hoa” đôi chút; Khmer thì theo truyền thống riêng của mình.

Sự thay đổi rõ rệt nhất chỉ diễn ra ở vật liệu, nếu trước đó là gỗ, lụa, đồng, giấy, vàng, bạc… thì bây giờ là kiếng. Về thị giác, do đặc thù phản quang tốt nên tranh kiếng nhìn có vẻ sặc sỡ, “lung linh” hơn. Riêng về màu sắc, xét từ Chợ Lớn đến khu vực người Khmer ở miền Tây Nam bộ (hành trình truyền nghề mất khoảng 30 – 40 năm), rõ ràng các màu truyền thống của Ấn Độ, của Phật giáo Nam tông, của văn minh Khmer nổi trội hơn ở tranh kiếng khu vực miền Tây Nam bộ.

Nhìn về tổng thể 100 năm qua thì tranh kiếng Nam bộ vẫn chỉ dừng lại ở khía cạnh thờ phụng, trang trí và minh hoạ (đặc biệt là cải lương, hát tuồng), nó chưa có cơ hội để bước sang địa hạt tranh kiếng nghệ thuật (như lụa, sơn mài hoặc điêu khắc đã làm). Rõ ràng tranh kiếng đang cần một sự lột xác, mà ở đó tài năng của nghệ nhân nên được kết hợp hoặc thay thế bởi tài năng của hoạ sĩ. Tranh kiếng mỹ nghệ đang cần thêm sự bảo chứng của tranh kiếng nghệ thuật.

Nhìn như vậy, triển lãm có tính khái lược về lịch sử tranh kiếng Nam bộ rất đáng xem. Bởi đối với người miền Nam, ánh sáng long lanh rọi chiếu từ trên bàn thờ đó không chỉ là trong máu huyết của nhiều đời mà còn rất phù hợp với tính cách phóng khoáng của người Nam bộ.


(Theo sgtt.vn)

Tên đăng nhập
Mật khẩu
Tên truy cập (*)
Mật khẩu (*)
Xác nhận mật khẩu (*)
Email (*)
Họ và tên
Số điện thoại
Địa chỉ
Mã xác nhận (*)