|
Tranh trấn trạch Wit-so-wan của nghệ nhân Mã Thị Dương, với triết lý, bố cục, màu sắc đậm phong cách Khmer.
|
Xét về trưng bày đại chúng thì triển lãm Tranh kiếng
Nam bộ khai mạc lúc 9g ngày 18.8 tại chùa Phật học Xá Lợi (89 Bà Huyện
Thanh Quan, TP.HCM) là lần thứ hai trong lịch sử. Lần thứ nhất diễn ra
hồi năm 1957 (cách đây 56 năm), tại phòng Thông tin đô thành Sài Gòn, do
hoạ sĩ Vạn Huê (Trương Cung Vinh) tổ chức. Triển lãm lần này chỉ diễn
ra trong bốn ngày, chọn giới thiệu khoảng 100 bức từ khoảng 1.600 bức mà
các nhà sưu tập Lý Lược Tam, Nguyễn Anh Kiệt, Nguyễn Đại Phúc, Huỳnh
Duy Thiết, Huỳnh Thanh Bình... sưu tầm được.
Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình thì tranh kiếng ra
đời ở Trung Quốc vào cuối thế kỷ 18, đặc biệt tại Quảng Đông, khi mà kỹ
thuật làm kiếng đã đến mức độ hoàn chỉnh. Tranh kiếng (du hoạ) kế thừa
kỹ thuật từ tranh sơn mài (tất hoạ), từ kỹ thuật khảm chạm, khắc gỗ, in
mộc bản, sau đó phát triển mạnh hơn vì chất liệu này rẻ, dễ làm và làm
nhanh. Tại Việt Nam, tranh kiếng đã xuất hiện trong các trang trí cung
đình, thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị…; nhưng để đi vào đời sống người
Việt thì phải đến đầu thế kỷ 20.
Nhìn lại quan niệm cấu thành tư tưởng và thẩm mỹ tranh
kiếng, rõ ràng nó vẫn đi theo dòng chính của truyền thống tranh pháo,
khảm chạm, in ấn trước đó. Chợ Lớn, Lái Thiêu… đậm nét phong cách thờ
phụng, trang trí của người Hoa; Mỹ Tho, Gò Công, Chợ Mới… thì theo phong
cách thờ phụng, trang trí đã được “Việt hoá gốc Hoa” đôi chút; Khmer
thì theo truyền thống riêng của mình.
Sự thay đổi rõ rệt nhất chỉ diễn ra ở vật liệu, nếu
trước đó là gỗ, lụa, đồng, giấy, vàng, bạc… thì bây giờ là kiếng. Về thị
giác, do đặc thù phản quang tốt nên tranh kiếng nhìn có vẻ sặc sỡ,
“lung linh” hơn. Riêng về màu sắc, xét từ Chợ Lớn đến khu vực người
Khmer ở miền Tây Nam bộ (hành trình truyền nghề mất khoảng 30 – 40 năm),
rõ ràng các màu truyền thống của Ấn Độ, của Phật giáo Nam tông, của văn
minh Khmer nổi trội hơn ở tranh kiếng khu vực miền Tây Nam bộ.
Nhìn về tổng thể 100 năm qua thì tranh kiếng Nam bộ vẫn
chỉ dừng lại ở khía cạnh thờ phụng, trang trí và minh hoạ (đặc biệt là
cải lương, hát tuồng), nó chưa có cơ hội để bước sang địa hạt tranh
kiếng nghệ thuật (như lụa, sơn mài hoặc điêu khắc đã làm). Rõ ràng tranh
kiếng đang cần một sự lột xác, mà ở đó tài năng của nghệ nhân nên được
kết hợp hoặc thay thế bởi tài năng của hoạ sĩ. Tranh kiếng mỹ nghệ đang
cần thêm sự bảo chứng của tranh kiếng nghệ thuật.
Nhìn như vậy, triển lãm có tính khái lược về lịch sử
tranh kiếng Nam bộ rất đáng xem. Bởi đối với người miền Nam, ánh sáng
long lanh rọi chiếu từ trên bàn thờ đó không chỉ là trong máu huyết của
nhiều đời mà còn rất phù hợp với tính cách phóng khoáng của người Nam
bộ.
(Theo sgtt.vn)