Đầu
năm 1957, khi khóa học Đại học Sư phạm Văn vào giai đoạn kết thúc, tôi
đã viết một luận văn nhỏ về Nguyên Hồng. Đây không phải là công việc bó
buộc của nhà trường vì lúc đó sinh viên chưa phải làm luận văn. Tôi viết
theo lòng yêu thích. Các nhà văn hiện thực như Nam Cao, Nguyên Hồng đều
được tôi trân trọng tìm hiểu. Khi được học "Những ngày thơ ấu" với
những trang viết xúc động và gần gũi, tôi đã quyết định viết về Nguyên
Hồng. Sách vở ở thư viện Trung ương dạo này thật đầy đủ. Lớp học của
chúng tôi có một số anh vẫn đến thư viện đọc đều. Thư viện vẫn cho phép
chúng tôi được lên gác hai có căn phòng đủ cho ba bốn chục người đọc. Và
một điều thú vị là người đọc có thể đi ra ngoài sân, ngồi trên bệ tường
và đọc sách dưới bóng của những cây phượng xanh tươi vào mùa hè.
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyên
Hồng hấp dẫn nên khi còn học ở năm cuối, tôi đã viết một luận văn khoảng
100 trang về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyên Hồng rồi mạnh dạn nhờ
thầy Đặng Thai Mai đọc hộ. Khoảng một tuần sau thầy Mai bảo tôi: "Tôi đã
nhờ một người có thẩm quyền nhất đọc cho anh". Tôi không dám hỏi lại và
chỉ biết cám ơn thầy. Vài tuần sau tôi nhận được bản luận văn do thầy
Mai chuyển lại. Thầy Mai bảo: "Anh Nguyên Hồng đã đọc cho anh, chắc là
anh rất vui lòng và yên tâm".
Nhà văn Nguyên Hồng ghi lại
nhận xét trên trang giấy trắng cuối cùng. Tôi còn nhớ rất rõ hàng chữ
viết thẳng, đều và nhỏ. Ông cho biết là tuy chưa gặp gỡ nhưng qua luận
văn ông có cảm tình đặc biệt với người viết. Ông khen tôi có triển vọng,
ham học hỏi, có thái độ trân trọng với tác phẩm và tỏ ra mạnh dạn khi
phân tích, bình luận. Ông chê tôi có nhiều chỗ còn non nớt, chưa am hiểu
nhiều về thực tế xã hội nên sự phân tích còn mang tính sách vở. Cuối
cùng, ông khích lệ tôi: "Người bạn trẻ hãy mạnh dạn đi vào con đường văn
chương". Từ đấy thỉnh thoảng tôi gặp ông ở Hội Nhà văn hoặc ở các buổi
nói chuyện của ông cho sinh viên.
Những năm chống Mỹ, một lần ông
lên khu sơ tán nói chuyện với Khoa Văn Đại học Tổng hợp. Các thầy giáo
đón tiếp ông, vị khách quý từ nơi xa về với trường. Ông giới thiệu với
sinh viên về bộ "Cửa biển", trong đó có tập "Cơn bão đã đến". Nhà văn
Nguyên Hồng đem theo sơ đồ rộng như một cái chiếu treo trên bảng và đã
chỉ rõ hướng điều quân, chỉ huy các nhân vật của ông. Ông ăn mặc giản
dị, chùm râu lốm đốm bạc phơ phất, dáng vẻ quắc thước. Ông để lại ấn
tượng sâu sắc cho sinh viên. Lúc này, trong câu chuyện, ông không gọi
tôi là "anh" như mọi khi mà gọi là "thầy". Ông dặn dò: "Đạo học là quý
lắm. Ngày nay, mọi người phải biết giữ lấy đạo học của cha ông. Mọi việc
có thể thay đổi nhưng đạo học là không thể thay đổi". Trong đôi mắt ông
lấp lánh niềm tin. Tôi chợt nhớ ra ông chính là ông thầy, thầy Hồng dạy
cho các nhà văn trẻ. "Một thầy giáo được các nhà văn yêu quý, chân tình
tận tụy với công việc, giàu tình cảm, một người rất hay khóc, rất hay
dễ xúc động" (Nguyễn Minh Châu). Chuyện kể lại, khi ông đọc lại bản thảo
tập "Sóng gầm", đến đoạn Gái Đen chết, ông nghẹn ngào và chấm chấm nước
mắt.
Trong những ngày sơ tán, thỉnh
thoảng tôi lại có dịp về Hà Nội. Một lần đang đi trên phố Tràng Thi, tôi
bất chợt gặp ông. Ông vồn vã hỏi chuyện và rủ tôi vào một quán bia. Lúc
này ở giữa phố Tràng Thi có một quán bia hơi khá rộng và thoáng mát.
Bia vừa về nên người mua cũng khá đông. Mấy em nhỏ bán lạc chạy quây
quanh nhà văn Nguyên Hồng, nói: "Ông mua lạc cho cháu và cháu xếp hàng
mua bia cho ông". Ông nheo mắt mỉm cười bảo tôi ngồi xuống ghế rồi nói
với lũ trẻ: "Mua cho ông bốn vại". Tôi vội xin "rút lui" một vại. Ông
đưa tiền ra và bảo: "Thế các cháu mua cho ông ba vại". Các cháu nhỏ chạy
ra xếp hàng, thỉnh thoảng lại nhìn ông nhoẻn miệng cười. Ông lại nháy
mắt và buột miệng nói: "Các cháu nhỏ này là các chú Gavrốtsơ". Câu nói
của ông làm cho một ông khách ngồi đối diện bực mình. Ông này phản ứng
lại và nói ngay:
- Tại sao ông lại bảo lũ trẻ là Gavrốtsơ? Chúng nó mất nết, lang thang hết hàng quán này đến hàng quán nọ.
Tôi cũng bị bất ngờ vì câu nói
và nhìn lại ông khách. Có thể là cán bộ một ngành văn hóa hoặc tư tưởng
nào lại đã đọc "Những người khốn khổ" của Víchto Huygô. Nhận xét của ông
ta có phần đúng ở góc độ so sánh chất gan dạ anh hùng của Gavrốtsơ với
những em nhỏ không nghề nghiệp này. Nhưng tôi cứ cảm thấy sao nặng nề
vậy. Tôi lại nhìn Nguyên Hồng, nét mặt ông chững lại, ông bị xúc động
thực sự qua câu nói của người khách. Ông hiểu Gavrốtsơ, và ông cũng hiểu
các cháu nhỏ này.
Ông trả lời từ tốn, thiết tha:
- Tôi thương các cháu sống không gia đình, còn bé nhỏ như thế đã phải kiếm sống, phải đương đầu với mọi chuyện đau khổ.
Nguyên Hồng như rưng rưng, câu
nói của ông đã giải tỏa được tình thế. Người khách ngồi im và hình như
ông ta đã cảm thấy lời nói của mình hơi vội vàng, nhất là khi ông chưa
hiểu người ngồi trước mặt ông là ai.
Riêng tôi càng thấy quý mến
thêm tấm lòng đôn hậu, giàu yêu thương của nhà văn Nguyên Hồng. Chính
tấm lòng giàu yêu thương và tâm huyết trước cuộc đời là nguồn sáng tạo
để có một Nguyên Hồng trong thơ. Nguyên Hồng có tập thơ "Trời xanh",
những dòng thơ giàu cảm xúc giữa hàng ngàn trang văn xuôi phong phú và
bề bộn sự sống. Trong một lần trao đổi về tác phẩm "Sóng gầm", một tác
giả văn xuôi nói: "Đọc ông càng đọc càng thấy "ngổn ngang gò đống kéo
lên" nhưng khi gấp trang sách là lòng cảm phục sự sống quy tụ về đây và
gây ấn tượng". Cũng trong cuộc họp ấy nhà văn Nguyễn Đình Thi nói: "Đọc
Nguyên Hồng có những đoạn phải đọc đi đọc lại nhiều lần như cảnh gia
đình mẹ La. Sự nghèo khổ đến cùng cực, đội than đến trụi tóc, da dẻ cóc
cáy khiến người đàn bà này bị dồn đến chân tường phải xô xát với chồng
và luôn cầu khẩn cho số mệnh". Khác với tiểu thuyết, thơ ông là một dòng
tình cảm trong sáng, có lúc sôi nổi. Trong các nhà văn hiện thực dường
như không có nhà văn nào ngoài Nguyên Hồng có thơ hay. Tô Hoài cho biết
ông cũng có làm thơ lúc khởi nghiệp nhưng tự cảm thấy không phải sở
trường nên lại thôi. Nam Cao - theo Tô Hoài cho biết - cũng có một tập
thơ ký tên là Nguyệt, nhưng không gây ấn tượng.
Nguyên Hồng thì khác, có thể
xem ông có tư cách nhà thơ của một tập. Ông có một bài vào loại xuất sắc
trong thơ Việt Nam hiện đại: "Cửu Long giang ta ơi".
Cửu Long quặn đẻ
Chín nhánh sông vàng
Dòng sông từ thượng nguồn chảy qua nhiều nước, Lào và Campuchia. Những hình ảnh đẹp của đất nước Lào:
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa
Rừng Lào Miên đẹp quá
Dân Lào Miên mến yêu
Bài thơ đi vào kết thúc với những hình ảnh đẹp:
Đêm nay Cửu Long Giang
Sao khuya lấp lánh
Lửa chài thức
Sáng nhịp hát hò
Đồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru
Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát.
Thơ là một tuyến nhỏ trong đại
bộ của tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Bốn tập "Sóng gầm", "Cơn bão đã
đến", "Những ngày đen tối" và "Khi đứa con ra đời" với trên ba nghìn
trang sách là một kỷ lục về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Truyện kể
rằng khi ông viết xong tập cuối, ông báo cáo với bà: "Tôi không thua gì
ông Tônxtôi". Quả thực sức lao động ông bỏ ra thật đáng khâm phục, vốn
sống tình cảm lớn và sâu nặng với đất nước và cuộc đời những người nghèo
khổ.
Trong đời thường, Nguyên Hồng
có lối sống xuềnh xoàng. Có lần ông đến nhà ông Phan Cự Đệ, bà giúp việc
ngần ngại không biết ông thuộc khách loại gì và nhìn ông chăm chú. Nhà
văn hiểu ngay và nói: "Tôi đến thăm ông Đệ". Ông mặc giản dị, ăn nói
không cầu kỳ. Ông thích rượu, một vài chén cho hưng phấn. Rượu quê hợp
khẩu vị, có lúc vội vàng ông tu một vài hớp là xong. Ông thích thiên
nhiên phóng khoáng, sống ở quê Bắc Giang là chính. Hà Nội đô thị chật
chội, thi thoảng ông về vài ngày cho công việc, gặp bạn bè xong lại về
Bắc Giang. Ở Hà Nội, thỉnh thoảng bạn bè thấy ông ngồi trên ghế đá hoặc
tựa cột đèn bên hồ Thuyền Quang. Ông để ý đến chiếc cặp to đựng bộ bản
thảo tập "Cửa biển". Kẻ cắp chẳng rình mò, ông ngồi như ngắm trời xanh
và hồ nước, ông nghĩ gì ngoài chuyện văn chương và khởi sự là cuộc đời
mà ông trải nghiệm. Nhà thơ Ý Nhi đã vẽ chân dung ông trong những vần
thơ chân thực:
Không chống can và ngậm tẩu
Khủng khỉnh bàn đến các món ăn, rượu ngon
Không chạy nhông trên các diễn đàn
Rao giảng văn chương
Không làm bộ trầm tư cao ngạo
Nhà văn Nguyên Hồng đi trên các chuyến tàu
Trán đẫm mồ hôi
Tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn
Như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ
Một lão nông về quê sau chuyến đi xa
Một kẻ lang thang tìm đất mới
Một vài giọt lệ lớn nằm dưới đáy đôi mắt đang nheo cười.
Nhà văn ấy, người nông dân ấy
đã sống cuộc đời giản dị ở làng quê trong căn nhà bậc trung, quây xung
quanh ông là sách vở và xa hơn là vườn tược, ruộng đồng. Trong một lần
đi thăm Cộng hòa Dân chủ Đức, ông được các nhà văn ở xứ sở này gọi là
"nhà văn của đất đai, của đồng ruộng". Dường như ở dân tộc nào cũng có
những nhà văn nhà thơ của đồng quê. Nguyên Hồng đã tiếp nhận được sức
mạnh của đồng ruộng, không khí trong lành, những tấm gương lao động bền
bỉ của nhà nông và chính ông cũng lao động với tinh thần ấy

|