Gặp người ở bên Bác Hồ tại Tân Trào lịch sử
Nay đã 89 tuổi
song ông vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, tràn đầy nhiệt huyết. Tại ngôi nhà bên
sông Tô Lịch, Hà Nội, ông đã dành cho tôi cuộc trò chuyện về những gì
diễn ra tại “Thủ đô Cách mạng” những ngày tháng Tám lịch sử năm 1945...
Người tiêm thuốc cứu “ông cụ” trong cơn nguy kịch
Nhân chứng cuối cùng
của Thủ đô cách mạng Tân Trào ngồi đó, trên ngực áo trắng đeo huy hiệu
Bác Hồ, phong thái đĩnh đạc. Ông Nguyễn Việt Cường vào chuyện: Tôi tên
thật là Nguyễn Đức Kính, sinh năm 1925, ở làng Khau Chủ, xã Đông Viên,
huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Còn cái tên Nguyễn Việt Cường là của anh
Khang tức Đại tướng Hoàng Văn Thái đặt cho đấy.
Tôi được anh Thái đặt
cho là Việt Cường ý nói đất Việt lớn mạnh. Tôi được ở bên cạnh anh Văn
(tức đồng chí Võ Nguyên Giáp) tại nhà ông Hoàng Trung Dân bản Tân Trào.
Trước đấy, là một trí thức người Tày, tôi từng được đưa về Hải Dương học
trường trung cấp y tá, sau Nhật đảo chính thì về quê và theo cách mạng.
Trước khi về Tân Trào,
tôi gặp một người lính làm việc cho sở Đoan của Pháp nhưng có tư tưởng
yêu nước muốn theo Việt Minh và là người quen, xin được cái máy chữ và
ít bơm tiêm mang theo. Hành trang về Tân Trào có hai thứ quan trọng.
Điều đáng nói nhất là sau này tôi đã dùng hai thứ ấy để làm hai việc lớn
nhất - hai “sự kiện” khó khăn nhất, ấn tượng nhất trong đời hoạt động
của tôi là hai việc làm mà bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn... run.
Việc thứ nhất: Tôi tiêm
thuốc cứu Bác Hồ trong cơn nguy kịch. Lúc đó tôi chỉ biết đó là “ông
cụ” - một nhân vật mà theo tôi là khá quan trọng. Tôi
nhớ như in đang buổi chiều ngày 15/7/1945, anh Văn từ lán Nà Lừa về bảo
tôi: “Cường mang theo thuốc men và theo mình lên chỗ “ông cụ” để kịp
cứu cụ.
Là một thanh niên theo
các anh đi làm cách mạng, tôi chưa biết “ông cụ” là ai, chỉ biết đó là
một cụ già gầy yếu đang trong cơn nguy kịch. Mạch đuối lắm, mắt cụ trông
rất mệt mỏi... Tình thế ấy khiến anh Văn bối rối vô cùng. Tôi không còn
cách nào khác là muốn cứu người mà theo linh cảm đây là một người quan
trọng, có lẽ là cấp... phó của anh Văn.
Theo nguyên tắc, y tá
không được tự tiện chữa bệnh, nhưng lúc này tôi phải tuân thủ mệnh lệnh
của anh Văn, tôi lấy ống kim tiêm, chích cho cụ một mũi thuốc long não
trợ lực. Vài phút sau thấy cụ cử động được. Hai anh em mừng quá, nhưng
vẫn chưa hết lo. Rồi mươi phút sau thấy ông cụ mở mắt nhìn anh Văn.
Vừa thấy anh Văn, ông
cụ hình như sợ lỡ mất việc gì quan trọng nên dặn luôn ba ý. Theo tôi, đó
là một chỉ đạo có tính chiến lược. Giữa rừng xanh núi thẳm như vậy, sau
trận sốt thập tử nhất sinh mà cụ vẫn vô cùng sáng suốt. Trong những
điều “ông cụ” dặn anh Văn, tôi thấy có câu nói mà sau này đã thành bất
hủ: “Dù có đốt hết dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được tự do
độc lập”...
Thấy lời dặn dò của cụ
quan trọng quá, tôi tự giác ra ngoài để hai người tiếp tục câu chuyện hệ
trọng liên quan đến vận mệnh đất nước. Đến lúc ấy tôi vẫn chưa biết
“ông cụ” là ai chỉ biết chắc chắn là người ấy phải “to“ hơn anh Văn rất
nhiều, mới có việc dặn dò quan trọng thế.
Sáng hôm sau lên lán Nà
Lừa tôi đã thấy “ông cụ” dậy ngồi đánh máy chữ rất sớm. Dáng cụ tiều
tụy vì sốt rét, da cụ xanh xao... Tôi lễ phép:
- “Thưa cụ, anh Văn bảo tôi lên tiêm thuốc cho cụ...”.
Ông cụ quay lại nhìn tôi rất nghiêm:
- Hôm qua chú tiêm thuốc gì cho tôi mà “độc” thế? Tôi hốt hoảng: “Thưa cụ chỉ là thuốc cảm thôi ạ”!
- Tiêm vào đâu? “Dạ
tiêm vào đùi ạ!” - Sao tôi thấy đau trên đầu. “Dạ chỉ là tinh dầu thôi
ạ. Chắc cụ thiếu máu nên mới đau đầu...”.
- Thế thì chú tiêm tiếp đi.
Lúc tôi đang ngồi luộc kim tiêm dưới lán thì “ông cụ” xuống ngồi cạnh: Chú con ai mà biết tiêm?
- Dạ cháu học trường y tá thực hành Bắc Kỳ rồi ạ. Khi về quê thì đồng chí Khang gọi đi Việt Minh đấy ạ!
Cụ dặn tôi:
“Làm cách mạng phải gian khổ. Phải học tập mới làm được”.
Ngày thứ hai tôi tiêm
cho cụ một ống ký ninh chống sốt rét. Đến ngày thứ ba lên tiêm thì cụ
bảo: “Thôi tôi khỏi rồi đừng tiêm nữa”. Tôi chạy về báo cáo anh Văn, lát
sau anh bảo: “Đi với tôi” rồi dẫn tôi lên lại lán.
Tôi thấy anh Văn bước
lại ngồi cạnh “ông cụ”, nói: “Thưa anh! Tình hình rất khẩn trương. Anh
lại bị sốt như thế, nên tiêm thêm mấy mũi nữa mới khỏi...” - “Thế thì
chú tiêm đi” - “ông cụ” nói.
Hai sự kiện lớn nhất tại Tân Trào ngày 16/8/1945
Là người giúp việc anh
Văn, tôi thường đánh máy những văn bản cần thiết nhưng hôm anh Trần Huy
Liệu đã đưa bản Quân lệnh số 1 do Bác soạn cho chị Trần Thị Minh Châu
đánh và chị Châu đã giao cho tôi đánh lại cho nhanh vì thời gian rất gấp
nên không còn cách nào khác...
Sáng 16/8/1945, 7 giờ
30, dưới gốc đa Tân Trào trong lễ xuất phát của đoàn Giải phóng quân về
giải phóng Thái Nguyên, anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đã trịnh
trọng đọc bản Quân lệnh số 1.
Trong khi đó tại đình
Tân Trào, hơn 50 đại biểu cả ba miền Bắc - Trung - Nam về họp Quốc dân
Đại hội đã tề tựu cùng anh Tống (tức đồng chí Phạm Văn Đồng). Tôi thấy
có cả những nữ đại biểu miền Nam thướt tha trong tà áo dài rất đẹp và trong khung cảnh rừng núi, lúc ấy thật là lãng mạn...
Tôi được giao làm công
tác hậu cần cho Đại hội. Hai đầu bếp chuyên nghiệp của chủ đồn điền ở
Vĩnh Yên được bí mật mời lên phục vụ nấu ăn. Tân Trào mưa, không thể vào
rừng lấy củi, tôi phải đi vào nhà dân xin củi, mượn thêm xoong nồi bát
đũa phục vụ Đại hội. Anh Tống gọi tôi đến bảo: “Đồng chí lên mời “ông
cụ” xuống họp”. Tôi vâng lệnh chạy lên lán Nà Lừa thưa: “Thưa cụ, ông
Tống mời cụ xuống họp ạ!”. Ông cụ hỏi lại:
- Chuẩn bị xong rồi à?
Khi
đi qua khe nước lạnh, sợ cụ ốm mệt tôi ghé lưng muốn cõng cụ qua suối
“ông cụ” xua tay: “Không! Tôi sang được”. Rồi cụ tự xắn quần lội qua con
suối. Lúc sắp đến sân đình Tân Trào tôi thấy anh Tống ra đón “ông cụ”.
Cụ dừng lại lấy tay xả ống quần xuống rồi vuốt lại cho thẳng, đoạn cài
lại cúc cổ chiếc áo chàm cho chỉnh tề rồi bước vào hội trường...
Tôi nghe anh Tống giới
thiệu: “Đồng chí Hồ Chí Minh” thì hết sức ngỡ ngàng. Khi thấy cả hội
trường đứng dậy vui mừng chào đón cụ thì tôi vô cùng xúc động vì lần đầu
tiên tôi nghe tên lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tôi bàng hoàng vui sướng vì mình
có vinh dự vừa mới tiêm thuốc cứu vị lãnh tụ tối cao của dân tộc mà
không biết...
Đại hội thông qua
Chương trình Việt Minh, Phát động Tổng khởi nghĩa, lập Ủy ban Dân tộc
giải phóng và bầu ra Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Buổi chiều, Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân tại sân đình
Tân Trào.
Dân rất ít, chỉ có một
trung đội Giải phóng quân tề tựu bồng súng chào và bắn ba loạt đạn chào
mừng sự kiện trọng đại... Ngay tối ấy các đại biểu phải lên đường về lại
địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền...
Bồi hồi ôn lại chuyện
xưa, những ngày vinh dự hiếm hoi được ở gần bên Bác, ông Nguyễn Việt
Cường lặng người đi khi nhắc đến hình ảnh vị lãnh tụ đất nước mà hành lý
lúc bấy giờ chỉ có một bộ quần áo chàm trong cái tay nải. Ông Lê Giản
thì chỉ có độc mỗi cái quần cộc...
Ông chợt nhắc chuyện
cũ: “Hôm chuẩn bị để tiễn “ông cụ” đi họp với Đồng minh ở Côn Minh,
Trung Quốc, phải đi mượn vali, mượn ghế đẩu của dân làm cáng khiêng cụ
từ Tân Trào ra sân bay Lũng Cò để máy bay Đồng minh đón cụ đi họp vì cụ
đang rất yếu... Bây giờ nhớ lại, thương Bác quá!...”.
Ông Nguyễn Việt Cường
tâm sự: “Được ở bên Bác những ngày ấy, mãi mãi sau này tôi luôn nghĩ về
Bác, học tập tác phong, đạo đức của Bác và nguyện sống và cống hiến thật
nhiều cho đất nước.
Vừa rồi Đài truyền hình
làm phim về những ngày tháng Tám ở Tân Trào, tôi đã đính chính chi tiết
một số người viết trong hồi ký không chính xác về Bác Hồ tại Quốc dân
Đại hội rằng “Một cụ già ốm yếu ngồi cạnh cột đình” hoặc có người viết:
“Cụ xắn quần móng lợn bước vào hội trường...”.
Viết như vậy là chưa
chính xác. Bác rất chỉnh tề trong tác phong dù ở đâu, dù hoàn cảnh nào.
Nói lại được điều này, tôi thấy lòng thanh thản...”.
(Theo Dantri.com.vn)