 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tác giả. (Ảnh do tác giả cung cấp). |
Hôm
ấy, Đại tướng bị cảm nhẹ nên ngồi làm việc ngay trong nhà. Anh Huyên
dẫn tôi vào tận nơi rồi trở ra ngay. Trong phòng làm việc chỉ còn tôi và
Đại tướng. Sau khi niềm nở bắt tay tôi, hỏi han vài câu ngắn về tình
hình vợ con tôi, về quê hương Hà Tĩnh của tôi và không quên hỏi thăm sức
khỏe đồng chí Vũ Kỳ (tác giả từng là người giúp việc cho ông Vũ Kỳ, thư
ký của Bác Hồ - TS), ông đi vào nội dung làm việc luôn.
- Thế nào, cậu xem lại kỹ Điều 10 chưa?
- Báo cáo anh – tôi lúng túng trả lời – Đúng là sót chữ “và” trong câu thứ hai của Điều 10.
Nở nụ cười hiền hậu, độ lượng, ông nói với tôi:
- Là cử nhân văn học chắc cậu hiểu chữ “và” ấy quan trọng như thế nào?
Rồi ông đọc rõ, nhấn mạnh từng chữ trong câu:
- Công dân Việt Nam có các quyền tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước.
Nghe ông đọc xong, tôi liền chống chế:
- Có lẽ vì phải nộp bài cho kịp yêu cầu của anh nên các cháu đánh sót mất chữ “và”, còn em thì nhận thiếu sót kiểm tra không kỹ.
Nghe tôi nói vậy, ông hơi nghiêm sắc mặt:
-
Nhận thiếu sót thôi à? Suy ra đây là khuyết điểm rất nặng. Nếu cứ in ra
như thế thì nhân dân sẽ bảo Võ Nguyên Giáp bớt mất của dân một quyền
rất quan trọng mà Bác đã trao cho dân ngay sau ngày lập nước. Đó là
quyền tự do lập hội. Vì nếu chỉ có “tự do tổ chức hội họp” thì quá đơn
giản. Tổ chức một trận đá bóng, họp lại để bàn, tổ chức một cuộc câu cá,
họp lại để bàn... Còn trong văn bản ghi rõ “tự do tổ chức” thì ý nghĩa
khác hoàn toàn.
Rồi ông lại nở một nụ cười hiền hậu, vỗ vai tôi:
-
Cậu không nghe người ta nói “Tổ chức, tổ chức, tổ chức. Hãy cho tôi một
tổ chức, tôi sẽ nâng bổng quả địa cầu” để nói lên tầm quan trọng của tổ
chức đó sao?
Nghe
ông nói, tôi thực sự thấm thía về thiếu sót của mình. Tôi bỗng nhớ đến
những bài học lịch sử. Dưới thời đế quốc thực dân, bọn cầm quyền ngày
đêm tung tay chân đi lục soát khắp nơi, hễ đánh hơi thấy có một nhóm nào
tụ tập mà chúng gọi là “hội kín”, lập tức chúng tung ra cả bộ máy
chuyên chính, mở các cuộc đàn áp dã man, dập tắt cho kỳ được ngay từ
trong trứng nước. Nhóm Tân Việt của ông thành lập từ năm 1927, chỉ tồn
tại được trên dưới một năm, bản thân ông thì bị bắt giam vào nhà lao
Thừa Thiên Huế.
Tôi thấy ông đưa mắt nhìn qua cửa sổ, nét mặt đượm buồn, giọng như trùng hẳn xuống.
- Biết bao nhiêu hy sinh tổn thất, bao nhiêu con người ưu tú đã ngã xuống chúng ta mới có được Điều 10 của Hiến pháp.
Rồi ông nhìn sang tôi đang ngồi rất gần ông.
-
Cho nên trong bài viết này, chúng ta phải cố gắng thể hiện được tinh
thần đó, thấy công lao to lớn của Bác Hồ đã bôn ba khắp năm châu, bốn
biển, tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, rồi bắt tay xây
dựng một xã hội mới. Việc quyết tâm tổ chức thành công cuộc tổng tuyển
cử tự do ngay khi vừa giành được chính quyền là nhãn quan chính trị
thiên tài của Hồ Chí Minh.
Tôi
nhớ là hồi ấy có một số đồng chí không tin là chúng ta có thể tổ chức
thành công cuộc tổng tuyển cử, với lí do là trình độ dân trí còn thấp.
Nhưng Bác có một lòng tin tuyệt đối vào nhân dân. Và thực tế diễn ra
chứng tỏ lòng tin của Bác là chính xác.
Tôi yên lặng ngồi nghe ông nói và trân trọng những giây phút hồi tưởng quý báu của ông.
Hôm
ấy tôi ra về khi đường đã lên đèn. Trong giá lạnh mùa đông, tôi thong
thả đạp xe từ phố Hoàng Diệu về sân bay Bạch Mai, vừa đi vừa suy nghĩ về
trách nhiệm của mình đối với bài viết sao cho xứng đáng với lòng tin
của Đại tướng. Văn phòng Quốc hội đã nói rõ trong Kỷ yếu 50 năm Quốc
hội, bài viết “Bác Hồ với Quốc hội khóa I và bản Hiến pháp đầu tiên” của
Đại biểu Quốc hội khóa I Võ Nguyên Giáp sẽ là bài trung tâm. Chính vì
vậy mà cách đây hơn một tháng, ông đã cho gọi tôi lên giao nhiệm vụ.
Đêm hôm đó, tôi gần như thức suốt đêm để thể hiện cho được những gợi ý của ông.
Ngay
sáng hôm sau ông lại cho gọi tôi lên. Vì thức khuya nên tôi dậy muộn.
Hơn 9h tôi mới có mặt, trong lúc các anh trong Tổ thư ký giúp việc Đại
tướng đều đã có mặt. Thấy tôi đến, anh Huyên hỏi ngay:
- Sao muộn thế? Cụ đang chờ đấy.
Khi tôi bước vào phòng, vừa ngồi xuống ghế, Đại tướng liền bảo:
- Cậu hãy đọc lại toàn văn Điều 10 cho tớ nghe lại.
Tôi lấy bài ra, đọc rõ ràng từng chữ:
-
Điều 10, công dân Việt Nam có các quyền tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài.
Nghe xong, tôi thấy ông im lặng, trầm ngâm một lúc rồi hỏi nhỏ tôi:
- Hay ta bỏ điều này lại, coi như bài viết không đề cập đến bởi không nhất thiết bài viết nào cũng phải nêu đầy đủ tất cả?
-
Không thể được anh ạ! Đây là bài viết mà tên bài đã nêu rất cụ thể nội
dung của nó. Lẽ nào ta lại bỏ đi Điều 10 quan trọng như thế? Hôm qua anh
đã phân tích rất chí lý với em.
- Nhưng đêm qua nằm nghĩ lại tớ lại thấy phân vân. Có lẽ ta nên tham khảo ý kiến của Bộ Tư pháp.
- Chỗ anh Nguyễn Đình Lộc?
- Đúng.
Sau
đó, ông gọi anh Huyên vào. Anh Huyên trực tiếp trao đổi ngay với Bộ
trưởng Nguyễn Đình Lộc bằng hệ thống máy riêng. Tôi hồi hộp theo dõi
cuộc nói chuyện của anh Huyên và rất mừng khi thấy nét mặt anh Huyên vui
dần lên. Cuối cùng, anh phấn khởi báo cáo lại với Đại tướng.
-
Anh Lộc bảo sinh viên ta đi tu nghiệp nước ngoài mọi người đều bảo
“Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam là bản Hiến pháp đã tiếp cận được với
nền chính trị của thế giới hiện đại”. Anh Lộc bảo báo cáo với Đại tướng
viết bài ca ngợi Hiến pháp năm 1946 là niềm tự hào của dân tộc ta, là
thành quả tuyệt vời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghe xong, tôi thấy khuôn mặt phúc hậu của Đại tướng nở một nụ cười rất tươi. Ông đưa tay bắt tay tôi và động viên:
-
Thế là tốt rồi. Cậu về sửa sang thêm, đánh máy thật đẹp rồi gửi lên đây
càng sớm càng tốt. Bên Văn phòng Quốc hội họ vừa gọi điện giục bài.
Về
nhà, tôi hoàn thành lại bài viết và gửi đi cho đúng hẹn. Bài viết khá
tốt và được ông biểu dương, được Ban Tổ chức kỷ niệm 50 năm Quốc hội
Việt Nam đánh giá cao, được đăng đầu tiên ở cuốn Kỷ yếu.
Đại tá Thế Kỷ (Nguyên Trưởng ban Lịch sử Quân chủng Phòng không)