Nobel Văn học 2013: Một thiên tài tĩnh lặng
Lâu
rồi, Alice Munro (82 tuổi) không còn quan tâm tới các giải thưởng, hoặc
là chẳng bao giờ quan tâm. Hiện bà sống ở Clinton, gần mái nhà thời thơ
ấu ở tỉnh Ontario, Canada. Hôm giải Nobel Văn học công bố, bà đang đi
thăm con gái ở Victoria, phía cực Tây của Canada. Khoảng 1h trưa ngày
10/10 Hàn lâm viện Thụy Điển gọi điện để báo việc bà được trao giải
Nobel Văn học 2013, nhưng bà vắng nhà nên họ phải để lại tin nhắn. Cuối
cùng người con gái cũng nhận được tin và đánh thức bà dậy lúc 4h sáng
ngày 10/10 (do khác múi giờ). Vài phút sau, vừa xúc động vừa có phần càu
nhàu, bà trả lời phỏng vấn nhanh của Đài phát thanh - truyền hình
Canada CBC qua điện thoại: “Thật không thể nào, chuyện xảy ra thật huy
hoàng, tôi chẳng thể tả được, không biết nói làm sao”. Bà nói thêm: “Tôi
hy vọng rằng việc này sẽ khiến người ta xem truyện ngắn như một nghệ
thuật quan trọng, chứ không phải là thứ bạn giỡn đùa trước khi có được
một cuốn tiểu thuyết”.
Nhà văn Alice Munro. Ảnh: Ben Dolnick
Những câu hỏi trong ánh chớp
Alice Munro đã biết mình muốn làm nhà văn từ tuổi thiếu niên một cách tình cờ. Năm 2012, bà nói với tờ New York Time:
“Bao nhiêu năm rồi tôi cứ ngỡ truyện ngắn chỉ là việc thực tập cho đến
khi tôi có đủ thời gian để viết một cuốn tiểu thuyết. Rồi tôi nhận ra
rằng tôi chỉ viết được truyện ngắn mà thôi, và tôi giáp mặt với việc đó.
Tôi đồ rằng việc tôi cố đưa thật nhiều vào truyện ngắn là một sự bù
lỗ”.
Có mẹ là cô giáo dạy học và cha là một người săn chồn, sau
khi xong bậc trung học, Alice Munro theo ngành báo chí và Anh ngữ tại
Đại học miền Tây Ontario, nhưng bỏ ngang để kết hôn năm 1951. Cùng với
chồng bà định cư ở Victoria, mở một tiệm sách. Munro khởi sự viết khi
còn niên thiếu, bắt đầu đăng truyện trong nhiều tạp chí từ đầu thập niên
1950 nhưng đến năm 1968 mới xuất bản cuốn đầu tiên - tuyển tập truyện
ngắn Dance Of Happy Shades (Điệu vũ của những bóng râm hạnh phúc), được chú ý ở Canada. Năm 1971 bà xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lives Of Girls And Women (Đời những cô gái và đàn bà) được các nhà phê bình mô tả như một tiểu thuyết về sự thành nhân.
Munro
được đánh giá cao với lối kể chuyện tinh vi và hiện thực về tâm lý. Một
số nhà phê bình xem bà như Chekhov của Canada. Truyện ngắn của bà
thường lấy khung cảnh là những thị trấn nhỏ - nơi phải phấn đấu để có
một sinh hoạt được xã hội chấp nhận - thường đưa đến hậu quả là những
mối tương giao căng thẳng và tranh chấp về đạo lý, những vấn đề bắt
nguồn từ những khác biệt giữa các thế hệ và những tham vọng đụng độ
nhau. Munro thường mô tả những việc xảy ra thường ngày nhưng mang tính
quyết định, một thứ hóa thân soi sáng câu chuyện bao quanh và để những
câu hỏi về sinh tồn xuất hiện trong ánh chớp.

Tác phẩm Trốn chạy
(Nhã Nam & NXB Văn học, 2012) do Trần Thị Hương Lan dịch từ Runaway
(2004) đã thành tập truyện đầu tiên của Alice Munro có bản tiếng Việt. |
1 ăn 4
Khác
với những giải Nobel Kinh tế, Vật lý, Hóa học, Y khoa thuộc phạm vi
chuyên môn, người dân thường khó chia sẻ, giải Nobel Văn học hàng năm
đều có những tiên đoán, tranh luận, thậm chí cá cược ăn tiền với những
kèo lớn nhỏ. Năm nay, những nhà văn được cá độ nhiều nhất là Haruki
Murakami (Nhật), Svetlana Aleksijeviti (Belarus), Ko Un (Hàn Quốc),
Adonis (Syria), Ngugi wa Thiong’o (Kenya), và các nhà văn Hoa Kỳ như
Joyce Carol Oates, Thomas Pynchon, Philip Roth, và Don DeLillo. Ít được
nhắc đến hơn là Ismail Kadare (Albania), John Fosse (Na Uy), và Cees
Nooteboom (Hà Lan). Đến phút chót cá độ trên Ladbrokes là Murakami (2 ăn
5), Alice Munro (1 ăn 4) và Svetlana (1 ăn 6).
Tuy nhiên, các vị
Hàn lâm Thụy Điển có những chiến thuật kiểu tiểu thuyết trinh thám,
cương quyết giữ bí mật đến phút chót và dùng những biện pháp như mã hóa
tên tác giả và sử dụng bìa giả cho những cuốn sách mà các bồi thẩm đọc
khi ra công chúng. Sáng 7/10, thư ký thường trực của Hàn lâm viện Thụy
Điển, Peter Englund, viết trên mạng cá nhân: “Chúng tôi đã quyết định
xong”, nhưng không tiết lộ. Người ta chỉ nghiêng về việc tiên đoán người
được giải lớn tuổi và là nữ.
Trong văn học, rất hiếm tài năng
trẻ tuổi mà có tác phẩm tầm vóc. Nếu cộng tất cả những nhà văn được giải
Nobel cho tới nay thì tuổi trung bình là 64. Hai người nhận giải trẻ
tuổi nhất là Rudyard Kiping (42 tuổi năm 1907) và Albert Camus (44 tuổi
năm 1957). Ngược lại với tài năng toán học cũng như âm nhạc phát lộ rất
sớm và các phát kiến căn bản thường xảy ra trước tuổi 30. Có thể giải
thích phần nào lý do vì toán học và âm nhạc ít bị tùy thuộc vào nền tảng
văn hóa và trải nghiệm nhân sinh như văn học.
Trong 60 năm đầu
của giải thưởng này, do cách hiểu và giải thích câu “lý tưởng nhân đạo”
trong di chúc của Alfred Nobel một cách hạn hẹp nên các tác giả được
chọn phần nhiều nghiêng về những giá trị bảo thủ và truyền thống phương
Tây, tránh né những chủ trương quá khích. Vì vậy mà có sự thiên lệch cho
châu Âu và châu Mỹ, cho phái nam và cho những quan niệm chính thống.
Trong 113 năm của giải Nobel, Ấn Độ có một giải (Tagore, 1913), Trung
Quốc có 2 giải (Cao Hành Kiện, 2000, Mạc Ngôn, 2012), phụ nữ có 13 giải
nếu kể cả Alice Munro, trong đó 7 người nhận được giải kể từ năm 1991,
còn 6 người kia chia cho 90 năm.
Bậc thầy của truyện ngắn đương đại
Trong
thông báo của Ủy ban Nobel về giải văn học năm nay có một nhận xét
thuộc diện ngắn nhất từ xưa đến nay: “Bậc thầy của truyện ngắn đương
đại”.
Bởi vì đây là lần đầu tiên Nobel vinh danh một người chỉ sáng tác truyện ngắn. Một cuốn của Alice được ghi là tiểu thuyết, Đời những cô gái và đàn bà
thực ra chỉ là gồm những truyện ngắn trọn vẹn nhưng liên kết với nhau
thành chuỗi. Từ trước tới nay giải Nobel Văn học thường chỉ đề cao các
nhà thơ, các nhà tiểu thuyết và thỉnh thoảng hiếm hoi các nhà viết sử,
các triết gia, và các nhà văn hóa tổng quát.
Truyện ngắn là một
thể loại thích hợp cho việc đọc một mạch, thậm chí với thời buổi gia tốc
về thông tin và nhịp sống người ta đưa ra những truyện ngắn ngắn (short
short story) và những truyện lòng tay (Palm Of The Hand Story) nội dung
dưới 500 chữ hoặc ít hơn. Truyện ngắn không có tham vọng mô tả toàn
cảnh một hoặc nhiều cuộc đời đan xen, mà chỉ như một lát cắt ngang cuộc
sống, phơi bày một trực quan hoặc một hóa thân, hé mở một ý nghĩ, hoặc
cấu trúc khác về nhân sinh, hoặc thế giới. Với những phương tiện truyền
thông xã hội di động cầm tay ngày nay truyện ngắn có thể được hàng triệu
người đọc tiếp cận.
Alice Munro được coi như bậc thầy trong việc
mổ xẻ những tế vi của lòng người. Không phải những đại tự sự kiểu
Tolstoy hoặc Dostoievski. Không phải những bức tranh toàn cảnh về xã hội
tư sản thế kỷ 19 như Balzac. Hoặc cõi nội tâm miên man với ký ức và cảm
xúc như Proust. Hoặc hoạt cảnh hàng bao thế kỷ, qua một cây cầu trên
sông Drina như Ivo Andric…Truyện ngắn của bà đa phần dựa vào kinh nghiệm
bản thân để mô tả một cách cổ điển và hiện thực về cuộc đời đàn bà, con
gái; những vấn nạn trưởng thành, những eo sèo của ái tình và con cái,
nội trợ và xã giao. Bà xáo trộn thời gian và không gian, ký ức và thực
tại, nhưng tất cả đều nằm trong khuôn khổ ngữ pháp của cuộc sống thường
ngày. Người ta không gặp ở đó những phiêu lưu bất ngờ, những tưởng tượng
huyền ảo, hoặc những kích thước hoành tráng. Tuy nhiên, đó là chất hiện
thực của đại đa số nhân loại.
Alice
Munro là nhà văn còn sống nhưng có nhiều triển vọng nhất để được đọc
trong 100 năm nữa - đánh giá của phê bình gia Mona Simpson. |
(Theo thethaovanhoa.vn)