Cả cuộc đời cách mạng của ông luôn gắn
bó với chiến trường Quảng Nam – Đà Nẵng, là Bí thư Tỉnh ủy gần như liên
tục suốt 19 năm (1963-1982). Trong thời chống Mỹ, Quảng Đà là mặt trận
nóng bỏng nhất, là chiến trường trọng điểm của Khu 5. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của ông sâu đậm dấu ấn, ông không chịu lui về núi cho an toàn, không
chỉ đạo từ xa mà nhất quyết trụ bám ở nơi ác liệt nhất, đã góp phần tạo
ra một phong cách đặc sắc của chiến tranh nhân dân: Dân bám đất, du
kích bám địch, Đảng bám dân của ông đã là một mẫu mực của tính cách anh
hùng.
Sau Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tình
hình chiến trường trở nên ác liệt, địch ngăn chặn chi viện của miền Bắc
và tiêu diệt bằng được các chi bộ Đảng, đánh bật Đảng ra khỏi dân. Chúng
cày trắng các vùng nông thôn, nhiều vùng ở Quảng Đà đã bị chúng cày xới
bao lần. Trong lúc nóng bỏng như vậy, ông có quyết sách là đưa Thường
vụ Tỉnh ủy về đứng chân ở Gò Nổi - nơi bị đánh phá, cày ủi liên tục ngày
đêm. Có người lo ngại đưa cơ quan đầu não của Đảng về đây là rất nguy
hiểm, nhưng ông kiên quyết: Lúc này, điều quyết định còn hay mất là mỗi
đảng viên phải bám dân. Đúng là đứng chân giữa Gò Nổi là nguy hiểm nhất
nhưng hiệu quả nhất. Lúc này, sự có mặt của Bí thư Tỉnh ủy đang ở Gò Nổi
- nơi ác liệt nhất dù khó khăn đến mấy không một Bí thư Huyện ủy nào
dám bỏ dân chạy. Bí thư xã còn bám trụ thì không bí thư chi bộ hay đảng
viên nào bỏ thôn xóm. Đảng viên còn trụ lại thì dân trụ lại, theo đó địa
bàn còn thì phong trào còn. Vì vậy, Đảng bộ Quảng Đà đã bám trụ và vượt
qua tất cả những gian khó, làm tan vỡ mọi kế hoạch đánh phá thâm độc
của kẻ thù.
 |
Chỉ đạo kinh tế tài ba
Không chỉ là người “nhìn xa trông rộng”
trong lãnh đạo chiến tranh, theo lời đánh giá của cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, ông là “người đã góp phần làm rõ những nguyên nhân dẫn đến trì trệ
trong xây dựng kinh tế do cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp ngự trị
quá lâu, cần phải đổi mới toàn diện”. Sau ngày giải phóng, ông Hồ Nghinh
làm Chủ tịch Ủy ban Quân quản thành phố Đà Nẵng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam - Đà Nẵng. Trong giai đoạn phục hồi kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh sau năm 1975, với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy, ông có công lớn
trong việc chỉ đạo cải tạo công thương nghiệp không hoàn toàn rập
khuôn, giáo điều như nhiều nơi khác và đã đạt được những thành tích lớn,
tạo ra mạng lưới phân phối gồm các cửa hàng, các hợp tác xã thương mại
và dịch vụ phục vụ cho đời sống nhân dân. Nổi bật nhất về phát triển
công nghiệp hậu chiến là các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã sản xuất mọc
lên khắp nơi trong tỉnh, tạo việc làm cho hàng vạn lao động, làm ra
nhiều sản phẩm hàng hóa phục vụ cho nhu cầu quốc kế, dân sinh trong
tỉnh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiêu biểu ở
thành phố Đà Nẵng là các nhà máy ra đời trên khu công nghiệp Hòa Khánh
như nhà máy Cơ khí Đà Nẵng, nhà máy Thủy tinh, nhà máy Dưỡng khí, nhà
máy Hóa chất, nhà máy dệt Hòa Khánh… Nhiều nhà máy nằm trong lòng thành
phố như nhà máy Dệt 29/3, nhà máy Bia Sông Hàn, nhà máy Cơ khí Ô tô, nhà
máy Điện cơ, Xí nghiệp Cơ khí 2/9… Trong lĩnh vực nông nghiệp, ông đã
thuyết phục được những người lãnh đạo ngành thủy lợi và những quan chức
lãnh đạo kinh tế trung ương cho phép xây dựng đập Phú Ninh để giải quyết
vấn đề kinh tế, dân sinh của tỉnh Quảng Nam trong điều kiện khó khăn
nguồn vốn. Có thể nói công trình thủy lợi Phú Ninh là công trình điển
hình của tuổi trẻ Quảng Nam – Đà Nẵng. Bao lớp thanh niên xung phong lên
đường góp công sức xây dựng nên công trình có ý nghĩa lịch sử, biến một
vùng đất rộng lớn cằn cỗi ở phía nam, rộng 25.000 ha từ một vụ lúa bấp
bênh, năng suất thấp thành cánh đồng lúa hai vụ xanh tươi.
Sau khi có Nghị quyết của Trung ương về
cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, ông đã linh hoạt, chủ động
triển khai nhiều biện pháp thích hợp, nhờ vậy phong trào sản xuất công
thương nghiệp ở Quảng Nam - Đà Nẵng sớm ổn định, phát triển, không gặp
khó khăn lúng túng như nhiều nơi khác. Thực tế, sau giải phóng, nhiều
ngành nghề thủ công nghiệp, các nghề truyền thống trên quê hương đất
Quảng phát triển mạnh mẽ như nghề mành trúc, tranh thêu, mộc kim bồng… ở
Hội An; nghề thảm len, mây tre… ở Đà Nẵng, nghề đúc đồng ở Điện Bàn…
Tượng đài trong trái tim dân
Trong lúc đất nước đang trong khó khăn
về lương thực, lại xảy ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, nên "Tất
cả cho lương thực" là một trong những khẩu hiệu hành động hàng đầu. Vì
vậy, các nhà chuyên môn trong ngành thủy lợi ra sức tìm giải pháp tưới
tiêu đồng ruộng để "thay trời làm mưa". Tại tỉnh Quảng Nam, cùng với
hàng loạt công trình thủy lợi, trong đó có dự án Khe Thẻ. Nhưng công
trình này gây ra nhiều tranh cải. Ông Hồ Nghinh chính là người quyết
liệt trong việc bác bỏ làm đập Khe Thẻ. Bởi ông hiểu được giá trị văn
hóa vô giá của Mỹ Sơn. Nếu không có ông Hồ Nghinh thì phố cổ Hội An cũng
đã bị phá tan, vì cán bộ địa phương "quá tả" trong việc đập miếu, phá
đình, họ cho là bài trừ văn hóa phong kiến, văn hóa Trung Quốc. May mà,
người ta mới đập phá cổng tam quan Khổng Miếu thì ông Hồ Nghinh biết
chuyện, liền vội vã vào tận hiện trường ngăn chặn. Và nhờ thế mà phố cổ
Hội An tồn tại, rồi kiến trúc sư Kazik góp phần bảo tồn để được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Ghi nhớ công lao người kiến trúc sư Ba
Lan, người ta đã đặt tượng Kazik trong một vườn hoa giữa phố cổ Hội An.
Còn công lao của ông Hồ Nghinh góp phần làm nên công trình thủy lợi Phú
Ninh, giữ lại khu đền tháp Mỹ Sơn và phố cổ Hội An để tổ chức UNESCO
công nhận là hai di sản văn hóa thế giới của Việt Nam? Phải chăng, người
dân xứ Quảng đã dựng tượng đài ông trong trái tim mình!
Trước lúc qua đời, ông để lại số tiền 1
tỷ đồng để xây dựng Quỹ khuyến khích sáng tạo khoa học và công nghệ Hồ
Nghinh để khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng khoa học và
công nghệ của cán bộ, nhân dân đặc biệt là thành viên, hội viên của
Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật TP, Hội Kinh tế TP… góp phần phát
triển KTXH.
Hồ Nghinh đã đồng hành cùng cách mạng và
dân tộc, từ một người dấn thân cho lý tưởng cách mạng và nhân văn ông
trở thành một nhà lãnh đạo, lấy thực tiễn phong phú của cuộc sống làm
thước đo chân lý và không ngừng bổ sung những kiến thức đã học tập và
trải nghiệm vào kho tàng tri thức của mình để đề ra những quyết sách sát
hợp với thực tiễn, đem lại những thành công nhất định trên cương vị
công tác của mình. Lịch sử đã trôi qua nhưng những giá trị mà ông mang
lại, trong nhiều vấn đề vẫn còn có tính thời sự. Ông là một tấm gương
sáng về tinh thần yêu nước, về phẩm chất cách mạng trong sáng, về tư duy
trong sự nghiệp đổi mới đất nước với tấm lòng chính trực.n
(Theo giaoducthoidai.vn)