Về dư luận trong nước, tôi thấy nhân dân đồng tình
với bài phát biểu, bởi đã nói rõ quan điểm của Việt Nam trong hội nhập
quốc tế. Bài phát biểu mang tính xây dựng, đúng mực, cầu thị trong quan
hệ quốc tế, nhất là ứng xử trong vấn đề Biển Đông.
Theo quan điểm của tôi nội dung nổi bật nhất trong
bài phát biểu của Thủ tướng là vấn đề “lòng tin” và “xây dựng lòng tin”
giữa các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Muốn xây dựng lòng tin đòi hỏi
sự nỗ lực của mọi thành viên.
Tóm lại, tôi ủng hộ bài phát biểu này. Tuy nhiên để
những thông điệp nêu trong bài phát biểu của Thủ tướng trở thành hiện
thực, cần phải có những nỗ lực và hành động cụ thể.
Vậy theo ông, cần phải làm gì để hiện thực hóa những nội dung trong bài phát biểu của Thủ tướng?
Ông Vũ Mão: Theo tôi cần làm tốt các công việc sau đây:
Một là, chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để có
những hiểu biết toàn diện về luật pháp quốc tế liên quan tới những vấn
đề chúng ta đang bàn, cụ thể là vấn đề Biển Đông.
Một yêu cầu cao hơn thế nữa là, chúng ta còn có trách
nhiệm nghiên cứu những vấn đề mà quy định chưa rõ, chưa hợp lý, từ đó
chúng ta đóng góp ý kiến để hoàn thiện thêm luật pháp quốc tế. Trên cơ
sở đó, giúp cho chúng ta có cách nhìn và cách xử lý đúng đắn những vấn
đề phức tạp phù hợp với luật pháp quốc tế, để dư luận quốc tế đồng tình,
ủng hộ cho ta.
Hai là, cần nhận rõ hiện nay công tác tuyên truyền
của chúng ta về vấn đề Biển Đông chưa kịp thời và chưa có chiều sâu.
Chính điều đó đã làm cho một bộ phận nhân dân hiểu chưa rõ, thậm chí còn
có những người nhìn nhận vấn đề “cực đoan”, phê phán chính quyền yếu
thế, nhu nhược, đòi hỏi phải thế này, phải thế kia.
Ba là, muốn khẳng định vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, muốn cho tiếng nói có trọng lượng thì đòi hỏi chúng ta
phải có thực lực. Ông cha ta thường nói: “Có bột mới gột nên hồ” là vì
vậy. Có thực lực thì tiếng nói của Việt Nam mới trọng lượng, chúng ta
mới có thể trao đổi sòng phẳng với các đối tác.
Nói cách khác, muốn mạnh về đối ngoại thì trước hết
chúng ta phải mạnh về đối nội. Nhiều vấn đề trong nước, nhất là các vấn
đề về kinh tế và đời sống của nhân dân đang rất bức xúc mà cần phải khẩn
trương giải quyết. Có vậy, mới củng cố được niềm tin của nhân dân trong
cả nước. Chính niềm tin đó là sức mạnh vô địch.
Bốn là, chúng ta phải củng cố quan hệ tin cậy với các
nước trong khu vực, cũng như những quốc gia có lợi ích liên quan, nhất
là các nước lớn. Trong đó chúng ta phải củng cố mối quan hệ với những
nước có truyền thống lâu đời, để tăng thêm lòng tin, sự hiểu biết giữa
hai bên.
Chẳng hạn, giữa Việt Nam – Trung Quốc, phải thường
xuyên tiếp xúc, trao đổi; quân đội hai nước cũng phải có sự trao đổi,
phối hợp để tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau, tương tự vấn đề an ninh
cũng phải làm như vậy.
Năm là, cần đẩy mạnh công tác ngoại giao nhân dân.
Chúng ta cần chủ động tuyên truyền làm cho cộng đồng quốc tế, đặc biệt
là để nhân dân hai nước Việt – Trung hiểu nhau hơn. Cần tổ chức nhiều
hoạt động gắn kết tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhất là nhân dân
ở các tỉnh biên giới...
Sáu là, coi trọng vai trò của cộng đồng ASEAN, cần
củng cố quan hệ đoàn kết trong khối, tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết
hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và
của cả khu vực. Trong lúc này việc làm có ý nghĩa quan trọng nhất để xây
dựng một ASEAN đồng thuận, đoàn kết, thống nhất, chung tay vun đắp hòa
bình và thịnh vượng ở khu vực.
Xin trân trọng cảm ơn ông!