Tóm tắt nội dung
-
Cung cấp cho người đọc những kiến thức cơ bản cùng bức tranh toàn cảnh về
truyền thống giáo dục và khoa cử của Thăng Long - Hà Nội thời phong kiến, trên
nền cảnh giáo dục và khoa cử Nho học của các nước, thể hiện qua việc tổ chức
học tập và khoa cử, qua các nhà khoa bảng (các vị Tiến sĩ, Hương cống - Cử
nhân), phục vụ cho việc giáo dục truyền thống, nhất là việc tuyên truyền để kỷ
niệm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội,
-
Từ việc nghiên cứu, giới thiệu về truyền thống giáo dục và khoa cử của Thăng
Long - Hà Nội thời phong kiến qua các nội dung trên đây, rút ra những bài học
kinh nghiệm của quá khứ vào việc đào tạo và sử dụng nhân tài cho Thủ đô, góp
phần vào việc xây dựng Thủ đô giàu đẹp, hiện đại và văn minh, giữ gìn bản sắc
dân tộc và bản sắc Hà Nội.
Bình luận
*
PGS.TS. Đinh Khắc Thuân (Bình luận bản
thảo)
Bản
thảo đánh máy, khổ A4, gồm trên 1000 trang, khá hoàn chỉnh cho việc xuất bản,
gồm đủ các mục như Mục lục, Lời tác giả, nội dung chương mục, Thư mục tài liệu
tham khảo, cùng các bảng kê của sách.
Nội
dung chia làm 2 phần, 9 chương:
Chương
I: Vài nét về sự hình thành và phát triển của nền giáo dục và khoa cử Nho học
Việt Nam:
27 trang
Chương
II: Vị trí của Thăng Long - Hà Nội trong nền giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam:
54 trang
Chương
III: Mấy vấn đề về tiêu chí Nhà khoa bảng cần được coi là người Hà Nội: 30
trang.
Chương
IV: Nhìn nhận chung về các nhà khoa bảng Thăng Long - Hà Nội: 55 trang.
Chương
V: Danh sách các tiến sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội qua các vương triều: 267
trang
Chương
VI: Các Tiến sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội phân theo các đơn vị quận, huyện
hiện nay: 119 trang
Chương
VII: Các vị đỗ Hương cống thời Lê: 57 trang
Chương
VIII: Các vị Hương khoa thời Nguyễn của Thăng Long Hà Nội phân theo các khoa
thi: 121 trang
Chương
IX: Các Hương cống - Cử nhân thời Nguyễn của Thăng Long - Hà Nội phân theo đơn
vị quận, huyện: 76 trang.
Bố
cục như trên là hợp lý và rõ ràng. Tuy nhiên, có những chương quá dài như chương
V; một số trường hợp trùng lặp, như tiểu sử một số vị đỗ đạt đã được giới thiệu
ở mục người đỗ đại khoa, lại gặp trong người đỗ trung khoa. Hơn nữa, tên gọi
Chương V là Danh sách các vị Tiến sĩ Nho
học Thăng Long - Hà Nội qua các vương triều, nhưng thực tế không chỉ là
danh sách mà còn có cả tiểu sử của từng vị khoa bảng, cùng sự khảo cứu, chỉnh
sửa sai sót ở các tài liệu giới thiệu trước đây. Chính vì vậy, cần cân nhắc
điều chỉnh cho chặt chẽ hơn, hoặc là chỉnh sửa tên gọi Danh sách, hoặc
chỉ đưa danh sách, còn tiểu sử cụ thể thì đặt ở cuối sách?
Bốn
chương đầu từ Chương I đến Chương IV, tuy được viết rất vắn tắt, song cần thiết
và khá chuẩn xác. Đây cũng chính là kết quả nghiên cứu và tích lũy của tác giả
trong nhiều năm qua.
Trong
phần tiêu chí về nhà khoa bảng Thăng Long - Hà Nội, tập sách giới hạn ở người
đỗ đại khoa (đỗ các kỳ thi Hội và thi Đình - Tiến sĩ) và đỗ trung khoa (đỗ các
kỳ thi Hương: Hương cống, Cử nhân), như vậy là xác đáng. Tiêu chí xác nhận nhà
khoa bảng được coi là người Hà Nội, cũng như những người không được coi là
người Thăng Long - Hà Nội, cũng hết sức xác đáng. Tuy nhiên, trong thực tế,
việc xác định nhà khoa bảng sinh ra ở làng nào và lớn lên ở đâu là hết sức khó
khăn. Do vậy nên nhất quán dựa vào một loại tư liệu. Đó là ghi chép trong Đăng
khoa lục. Đăng khoa lục có thể xem như trích ngang hồ sơ dự thi của thí sinh,
từng được quy định khá chặt chẽ. Theo lệ khoa cử, để được tham dự các kỳ thi
tuyển, thí sinh trước hết phải làm theo thể lệ đăng kí tư cách thí sinh, như lệ
định thời Hồng Đức như sau: "Thí sinh phải nộp căn cước, khai rõ phủ,
huyện, xã, tuổi tác cùng là chuyên học kinh nào, lý lịch ông cha ra sao, không
được gian dối, giả mạo. Nhà phường chèo, con hát và những kẻ phản nghịch không
được thi" (Đại Việt sử ký toàn thư,
T.2, tr.396). Thực tế, có không ít thí sinh theo học và sống ở địa phương khác,
song trước khi đi thi đều phải về quê quán tham gia sát hạch ở địa phương. Chẳng hạn, Nguyễn Trung Ngạn được Đăng khoa lục ghi là người xã Thổ Hoàng
huyện Thiên Thi. Và thực tế, ông được xác định là nhà khoa bảng của Hưng Yên;
mặc dù, các tài liệu khác ghi ông là con cháu của Trạng nguyên Nguyễn Hiền
người làng Dương A, huyện Thượng Hiền,
nay thuộc Tp. Nam Định, thậm chí gia phả họ Nguyễn Công ở Đô Lương ghi ông là
tổ họ Nguyễn này ở vùng Đô Lương, Nghệ An. Như vậy, có nghĩa là quê quán ghi
trong Đăng khoa lục chính là quê của
vị khoa bảng đó.
Chương
V, tập sách giới thiệu 662 vị Tiến sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội. Phần lớn các
nhà khoa bảng đều dựa theo ghi chép trong Đăng
khoa lục được dịch, giới thiệu trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam.
Ngoài ra còn được bổ sung bằng một số nguồn tư liệu khác. Chẳng hạn, trường hợp
Trình Thanh (1411 - 1463) (trang 192) được tập sách giới thiệu là người làng Đa
Sĩ huyện Thanh Oai, đỗ khoa Hoành từ năm Tân Hợi (1431), trong khi đó tài liệu Đăng khoa lục không ghi chép gì về vị
khoa bảng này. Do vậy, cần nêu rõ xuất xứ tư liệu và cần cân nhắc để cho nhất
quán. Trong chương này, tác giả đã bỏ nhiều công sức chỉnh sửa sai sót, nhầm
lẫn về năm sinh, năm mất, quê quán của khá
nhiều nhà khoa bảng đã được giới thiệu trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam.
Cũng
chính trong chương này, có đoạn khảo quá kỹ, như trường hợp Phạm Cư, tác giả dẫn
nhiều tài liệu để khảo cứu, nhưng đôi khi hơi dài.
Chương
VI là phân định số người đỗ đại khoa trong từng quận, huyện ở Hà Nội, cùng một
nội dung khá quan trọng khác là giới thiệu các làng, dòng họ khoa bảng tiêu
biểu ở Thăng Long - Hà Nội.
Tương
tự như vậy, các chương sau giới thiệu về các vị đỗ trung khoa, bao gồm các vị
Hương cống thời Lê - đầu Nguyễn và Cử nhân thời Nguyễn. Phần này hầu như chưa
có tài liệu, nghiên cứu nào đề cập đến, do vậy tác giả đã bỏ nhiều công sức để
sưu tập. Chính vì thế có địa phương được giới thiệu nhiều, ngược lại có nơi do hạn chế tư liệu
nên chỉ vắn tắt được một vài người đỗ trung khoa như trường hợp quận Ba Đình có
2 vị (thực tế không thể chỉ có 2 người đỗ trung khoa được).
Sau
phần các vị đỗ đại khoa và đỗ trung khoa đều có bảng tra cứu người đỗ đạt. Nên
chăng dồn hai bảng tra thành một để đỡ trùng lặp. Mặt khác, khi viết về tiểu sử
các vị đỗ trung khoa này mà đã được giới thiệu ở phần đỗ đại khoa (thuộc Chương V) thì nên chỉ chỗ số bao nhiêu
ở danh sách người đỗ đại khoa.
Bản
thảo đã được sửa chữa khá tốt lỗi kỹ thuật, tuy nhiên vẫn còn một số ít cần
tiếp tục hoàn chỉnh. Chẳng hạn:
Trang
2: văn hóa đánh thành vắn hóa
Trang
24: chữ Nhâm viết lỗi: NHâm
Trang
44: chữ trên viết thành trtên
Trang
95: chữ của viết thành ủas
Trang
1010: người Mường thì viết là ngời Mường.
Trang 182 ở ngôi từ năm Tân Mùi
đánh thành ở ngôi từ năm từ năm...
Một số chỗ còn bỏ khuyết chưa giải
đáp, như trang 35 còn bỏ trống chữ Hán, bỏ trống số liệu người đỗ Trạng nguyên,
Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp.
Trang 184 xã Dũng Thái đổi thành ?
Trang
192 ở Chương ....?
Trang 60: Huấn đạo ở Quốc Tử giám. Xem lại vì Huấn đạo không có ở Quốc tử giám mà
chỉ có ở phủ huyện.
Trang 194 ghi tác phẩm của Nguyễn Trực có Xư Liêu tập. Thực
ra Xư Liêu là tên tự của Nguyễn Trực, nhưng các tài liệu Hán Nôm đều phiên là
Hu Liêu. Bởi vậy, ở đây chỉ nên ghi tác phẩm là Bối Khê tập là đủ.
Trên đây là một vài sai sót cần chỉnh sửa. Bản
thảo hiện tại cũng đã được biên soạn khá công phu và hoàn chỉnh. Tuy nhiên, tác
giả nên tiếp tục rà soát lại.
Nhà xuất bản Hà Nội