Tìm kiếm
Chào mừng bạn đến với trang điện tử của Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến.
Bình luận sách |  Bạn đang ở:Trang chủ » Chi tiết bình luận sách
Tìm hiểu lễ hội ở Hà Nội
Chủ nhật, 14/08/2011 11:17
Tác giả: PGS.TS Lê Hồng Lý. Thể loại sách: Nghiên cứu biên soạn. Mảng sách: Văn hoá - Xã hội.

Tóm tắt nội dung

- Từ trước đã có nhiều tác phẩm viết về đề tài này (kể cả kịch bản “10 lễ hội tiêu biểu của Hà Nội” do PGS Phan Khanh xây dựng), tuy nhiên đây là một đề tài được biên soạn lại trên cơ sở những nghiên cứu, tích luỹ của tác giả trong nhiều năm qua.

- Đề tài đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về lễ hội ở Hà Nội, tìm ra những nét đặc trưng, những vấn đề lịch sử và vai trò của lễ hội trong đời sống chính trị, văn hoá, tâm linh của người Hà Nội.

- Bổ sung tư liệu điền dã trên cơ sở điều tra khảo sát lại một số lễ hội tiêu biểu, nổi tiếng.

- Bổ sung khảo sát một số lễ hội mới như: giáng sinh, lễ tình yêu, quốc tế phụ nữ 8/3…

- Bản thảo đã khảo sát các lễ hội đặc trưng, tiêu biểu của Hà Nội, bổ sung được những lễ hội lớn. Lễ hội được tìm hiểu, nghiên cứu ở nhiều khía cạnh không chỉ lịch sử, văn hoá mà trong đời sống xã hội hiện nay. Những vấn đề về lễ hội đặt ra hợp lý, thích đáng, rất đáng quan tâm trong thời điểm hiện nay.

Bình luận

* PGS.TS Trần Lâm Biền (Bình luận bản thảo)

Đề tài chia năm chương

          Chương I: Viết khá tốt, định vị được Hà Nội trong các vấn đề địa lý, chính trị, lịch sử, văn hoá… Đã điểm được vừa đủ ý kiến của những người và công trình đi trước. Chỉ tiếc rằng điểm chỉ để điểm thôi, các tác giả còn e ngại trong việc rút ra những ý kiến chung, nhất là ý kiến của riêng mình để làm bệ đỡ xuyên suốt cho công trình. Vì thế, người đọc (nhất là những người đam mê với nghiên cứu, thích tìm hiểu sâu vấn đề) dễ có cảm giác bị hẫng đôi chút khi đối sánh giữa chương 1 với 3 chương sau. Nếu như ở chương 1, các tác giả đưa ra được một định nghĩa (dưới dạng giả định cũng rất cần thiết), đồng thời có một số tán đồng hay phê phán sâu hơn về nhận thức của người đi trước, thì tác dụng đối với bạn đọc bình dân sẽ chắc chắn tốt hơn rất nhiều. Nhìn chung, theo tinh thần: Chưa tìm được chân lý tuyệt đối thì hãy tạm coi đó là chân lý đã…, nên tạm coi đây là bước đầu, là một cái búng uyên nguyên để chuyển hướng, thì thực sự chương này đã có khả năng vượt yêu cầu, dù cho nó mang tư cách mở cho một công trình nghiên cứu nhiều hơn cho một cuốn sách.

          Về chương II: Các tác giả điểm tới “những lễ hội cung đình…” nên đề là “Một số…” thôi, vì làm sao điểm đầy đủ được. Ở chương này tác giả đã thu thập được khá nhiều tư liệu rất quý và hay qua các sách của người xưa để lại tiếc rằng trọng tâm mới chỉ dừng lại ở chỗ vua gắn với lễ hội và tổ chức lễ hội, điều mà chúng ta cần là diễn biến của lễ hội và tác động của nó, ý nghĩa của nó với nguyên tắc thể hiện như thế nào thì ít được nhắc tới.

          Trong chương này, tác giả đã lập được một bảng biểu từ thời Lý tới thời Mạc (thế kỷ 11 đến 16), đó là một thành công, góp phần tích cực vào nhận thức của những người quan tâm tới vấn đề. Từ những kết quả thu lượm được qua tư liệu, tác giả đã đưa ra được một vài nhận xét chung có giá trị lịch sử. Như: sinh hoạt lễ hội của triều đình cũng bắt nguồn từ dân gian được quy định lại cho thích hợp. Một giải thích là: do vua chúa cũng mong cầu ở thần linh như dân. Song lý do bắt nguồn từ đâu (tổ chức, xã hội…), chưa thấy nói rõ ràng, chưa giải mã được các biểu tượng trong lễ hội. Nếu như điểm được tới hội trống đồng, đả xuân ngưu, tục thờ Đế Thích… chỉ cần đôi điều, dù là các giả thiết để làm việc (mà từ trước tới nay, người ta chỉ dừng lại ở kể lể và mô tả) thì công trình sẽ nổi hơn nhiều.

          Về chương III: Các tác giả đi vào một số lễ hội cụ thể, mỗi lễ hội thường nêu ra văn hoá của làng có lễ hội, tới di tích hoặc hệ di tích liên quan, rồi vị thần tương ứng cùng một số sự tích ít nhiều gắn với thần hoặc lễ hội và nhiều nghi thức gắn với sự thần, để từ đó đưa tới thời gian thiêng và các động tác thiêng gắn với hội…, đặc biệt là chú ý tới rước, tế và nhiều nghi lễ liên quan. Song, các tác giả đã quá trung thành với sự tích, chưa từ sự tích vượt lên trên sự tích để tìm ra bản chất của vấn đề, nên cũng chưa vượt qua các tài liệu đi trước… Có thể lấy vài ví dụ như: hội làng Ứng Thiên (đình) - có thật xuất hiện từ thời Lý không? Ý nghĩa của trâu đất đặt trong đền thờ Hậu thổ, trâu đen, trắng và những biểu tượng trên thân trâu là gì? Tại sao khăn tắm tượng phải màu đỏ? Tại sao nó có sức mạnh tâm linh?...

          Ở hội Gióng, ngoài những nét chung như của lễ hội khác, các tác giả đã nói tới thần tích, tới diễn trình của lễ hội, tới các di tích liên quan (mà chắc chắn chỉ được lập về sau), thì thực sự chúng ta vẫn chưa biết Gióng là ai (ngoài sự hư cấu lịch sử). Biết bao chi tiết gắn với Gióng không được giải mã như: vết chân khổng lồ, bà mẹ đồng trinh có mang, ba năm Thánh chẳng nói chẳng cười, vai trò của Thánh với sự phát triển của đồ sắt, với nông nghiệp và ứng xử với nước, với sự khai phá châu thổ thấp… tất cả như đều được quên đi. Ở các chi tiết, như khi đi lấy nước thờ tại sao lại phải có khăn đỏ bịt miệng choé và phải múc bằng gáo đồng… Đây là một sự câu nệ hay có gắn với yếu nghĩa linh thiêng và bắt nguồn từ đầu. Trong khi thực hiện lễ hội, tại sao lại rước ngựa trắng, tại sao ở bãi Đống Đàm và Sòi Bia lại trải chiếu và úp một hoặc ba chiếc bát trên tờ giấy để khi múa cờ lệnh xong bát được đá đi rồi sau đó là cuộc cướp chiếu… Tại sao lại phải có bát úp, cướp chiếu ngoài ý nghĩa lấy khước (mà tại sao lại mang ý nghĩa về khước) thì còn ý nghĩa nào khác, vì bao giờ cũng phải diễn ra trong tranh cướp với hiện tượng mất trật tự. Sau đó có lễ thức nào không? Ngoài ra các chú bé con mặc áo đỏ cầm que roi đỏ (dài khoảng gần 1m) đi dẹp đường là ai?... Có thể còn nhiều vấn đề được đặt ra, nhưng chưa được các tác giả quan tâm tới!

          Nhìn chung các lễ hội khác cũng đầy những chi tiết cần được các tác giả giải mã. Như ở hội đền Đồng Nhân, thì có thật là ngôi đền hiện nay được dựng trên nền của Tập Võ đường của triều Lê cũ? Trong khi dân và nhà chùa ở địa phương nói rằng đền lấy đất của chùa và dựng lại chùa ở phía bên trái. Điều này có thể tin được vì tượng Hai Bà (phong cách Nguyễn muộn) lại có được ngồi trên hai bệ có đài sen (đá, phong cách Lý, mới xác định lại). Đó là bệ của tượng Phật.

          Ngoài ra cũng như nhiều hội khác (Triều Khúc), ở đây có múa Bồng (trai mặc quần áo nữ), tại sao vậy? Nguồn gốc (dù cho là giả định) của hiện tượng này, vì chắc chắn không phải chỉ là một hình thức tạo sự vui nhộn.

          Ở hội Lương Quy, mô tả về lễ hội rất hay, nhưng chỉ gắn với tài khéo có tính kỹ thuật, không thấy đi sâu vào yếu tố tâm linh, có lẽ điều tra chưa kỹ.

          Ở hội đền Bà Tấm: đi tìm cái riêng trong lễ hội này có phần khó, nếu như không thấy yếu nghĩa Tam Thân của Bà = Nhân thân, Bồ tát thân (Quan Âm nữ) và hoá thân của Thánh Mẫu. Người Việt làm lễ hội về Bà chủ yếu ở đền, không phải ở chùa, phải chăng vì vậy mà Bà mới có một cách thờ riêng, có cả lục bộ đứng hầu (6 nữ tướng), rồi các ngai khám…

          Nhìn chung, mỗi lễ hội cổ truyền nên rút ra được cái chung cái riêng và ít nhiều cũng nên giải mã trong điều kiện nhận thức cho phép (dù cho mới ở giả thiết để làm việc) nhằm tránh đi việc quá đề cao hiện tượng tế rước (vốn không phải gốc từ làng xã), hay việc gắn với cúng bái… mà làm mờ bản chất vốn ẩn đằng sau các sự kiện (sự thực lịch sử và xã hội…).

          Về chương IV: chúng tôi cho rằng phần nhiều lễ hội này chưa định hình cụ thể, nên để hẳn thành một chương thì dễ đưa chúng ta tới nhiều phân vân.

          Về chương V: Chấp nhận được

          Nhìn chung, ngoài một vài vấn đề nêu trên, nhằm mong cho công trình tốt hơn thì hiện này tập bản thảo này có thể được coi là một cái khung của vấn đề, để những kỳ tái bản sau sẽ được làm kỹ hơn.

          Tôi ủng hộ việc xuất bản công trình này.

 

 Nhà xuất bản Hà Nội

  • Thời tiết - Tỉ giá
  • Giá vàng
    Tỉ giá