Tư liệu Phương Tây về Thăng Long - Hà Nội: Hiện trạng khai thác và triển vọng nghiên cứu
Trong suốt một thời gian tương đối dài, quan niệm truyền
thống của giới nghiên cứu trong nước về tư liệu nước ngoài liên quan đến Việt
Nam thường có xu thế nhấn mạnh đến các nguồn tư liệu phương Đông, nhất là các
nguồn tư liệu chữ Hán của các quốc gia Đông Bắc Á như Trung Quốc, Nhật Bản và
Triều Tiên. Quan niệm có phần thiên lệch trên là điều hết sức dễ hiểu bởi lịch
sử xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hơn hai nghìn năm qua luôn nằm
trong mối liên hệ chặt chẽ với các quốc gia láng giềng và khu vực. Tuy nhiên,
có một thực tế là, vào cuối thời trung đại, các mối liên hệ quốc tế của Việt
Nam đã được mở rộng một cách mạnh mẽ; bên cạnh các mối liên hệ truyền thống,
quốc gia của người Việt bắt đầu tiếp xúc với các thế lực Tây phương (Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…). Bản thân các quốc gia phương Tây - vì
lợi ích thương mại và lãnh thổ - đã ghi chép tương đối chi tiết về quốc gia
người Việt, từ thể chế nhà nước và quan hệ bang giao đến các khía cạnh lịch sử,
văn hóa, tín ngưỡng… Đây chính là cơ sở để hình thành khối tư liệu phương Tây
về Việt Nam
từ giai đoạn trung đại mạt kỳ (cuối thế kỷ XVI) đến hết thời cận đại (1945).
Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc (bị thực dân Pháp đô hộ và
kháng chiến chống Mỹ), việc tiếp cận và nghiên cứu các nguồn tư liệu phương Tây
về Việt Nam
của các nhà nghiên cứu trong nước không được triển khai cho đến những thập niên
cuối của thế kỷ XX. Tuy nhiên, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên
cứu nước ngoài đã cho công bố rải rác về khối tư liệu này trong một số diễn đàn
khoa học. Năm 1910, trên tạp chí Bulletin
de l’École Française d’Extrême-Orient (BEFEO) của Viện Viễn Đông Bác Cổ
Pháp, học giả người Pháp Charles B. Maybon công bố một bài viết tương đối dài
giới thiệu về kho tư liệu của thương điếm Anh tại Kẻ Chợ - Đàng Ngoài trong 25
năm cuối của thế kỷ XVII.
Vào năm 1929, trên cơ sở khai thác triệt để hơn 2.000 trang tư liệu của Công ty
Đông Ấn Hà Lan (VOC) về Đàng Trong, học giả người Hà Willem J.M. Buch đã cho
công bố bản luận án tiến sĩ về mối quan hệ giữa Công ty VOC với vương quốc của
các chúa Nguyễn. Năm 1936
và 1937, trên tạp chí BEFEO, Willem
J.M. Buch lại tiếp tục cung cấp thêm bức tranh toàn cảnh về hoạt động của Công
ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) ở bán đảo Đông Dương, trong đó có đề cập đến hoạt động
của VOC tại hai vương quốc của Đại Việt là Đàng Trong và Đàng Ngoài (tập trung
vào kinh đô Thăng Long - Kẻ Chợ) trong phần lớn thế kỷ XVII.…
Hơn ba thập kỷ sau, học giả người Pháp Pierre - Yves Manguin tiếp tục cung cấp
thêm một số nguồn tư liệu phương Tây khác liên quan đến vương quốc Đàng Ngoài
thông qua cuốn chuyên khảo về hoạt động của người Bồ Đào Nha ở Đại Việt và
Chiêm Thành cuối thời kỳ trung đại
Trong không khí hội nhập của đất nước thời kỳ Đổi Mới, nền
sử học nước nhà cũng đứng trước những vận hội để hội nhập và phát triển, nhất
là triển vọng khai thác các nguồn tư liệu phương Tây liên quan đến lịch sử dân
tộc giai đoạn trung đại mạt kỳ - cận đại sơ kỳ. Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ
XX, một số nhà sử học Việt Nam của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã có điều
kiện hợp tác nghiên cứu quốc tế nhằm khảo cứu bước đầu khối tư liệu của Công ty
Đông Ấn Hà Lan và Công ty Đông Ấn Anh (EIC) liên quan đến Kẻ Chợ - Đàng Ngoài.
Thông qua những báo cáo khoa học giới thiệu giá trị tư liệu và hiện trạng văn
bản của khối tư liệu lưu trữ của hai Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh trong các
cuộc hội thảo quốc tế về đô thị cổ Hội An (1990) và Phố Hiến (1994), giới sử
học Việt Nam ngày càng biết đến nhiều hơn đến tầm quan trọng của các nguồn tư
liệu này, nhất là những thông tin liên quan đến các trung tâm thương mại, chính
trị và văn hóa lớn của Đại Việt lúc đó như Thăng Long - Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An...
Các cuộc hội thảo cũng thống nhất kêu gọi tổ chức các chương trình nghiên cứu
toàn diện nhằm khai thác một cách triệt để và có hệ thống các kho tư liệu lưu
trữ của hai Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh, góp phần soi sáng nhiều khía cạnh
lịch sử kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo… của Đại Việt thế kỷ XVII. Mặc dù
vậy, trong hơn một thập kỷ tiếp theo, khát vọng khai thác một cách tương đối hệ
thống nguồn tư liệu VOC và EIC của nhiều thế hệ sử học Việt Nam vẫn cơ bản bị bỏ ngỏ. Nguyên
nhân chủ yếu là những khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ nhằm hợp
tác khai thác các nguồn sử liệu lưu trữ quý giá trên.
Phải đến những năm đầu thế kỷ XXI mới xuất hiện một số cơ
hội rõ rệt cho triển vọng khai thác các kho tư liệu lưu trữ châu Âu về Đại Việt
thời kỳ trung đại và cận đại. Chương trình nghiên cứu và đào tạo quốc tế TANAP
(Toward A New Age of Partnership) của Đại học Leiden (Hà Lan) đã tạo điều kiện
thuận lợi để một số nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam tiếp cận trực tiếp với nguồn tư
liệu của hai Công ty Đông Ấn và kế thừa những nghiên cứu có từ trước đó để soi
sáng thêm một số khía cạnh lịch sử bị lãng quên đến thời điểm đó.
Cũng thông qua chương trình TANAP mà lần đầu tiên một danh mục tương đối hoàn
chỉnh về nguồn tư liệu Hà Lan và Anh liên quan đến hai vương quốc Đàng Ngoài và
Đàng Trong của Đại Việt đã được hệ thống hóa, cho phép các nhà nghiên cứu hình
dung về quy mô cũng như giá trị lịch sử của các khối tư liệu phương Tây nói
trên. Một số nghiên cứu về khối tư liệu Pháp liên quan đến Đại Việt cũng được triển
khai và xuất bản. Giới nghiên cứu ngày càng hiểu biết cụ thể hơn về giá trị của
nguồn tư liệu phương Tây về Việt Nam, dù việc khai thác chưa được
tiến hành một cách quy mô do những hạn chế về tài chính cũng như rào cản ngôn
ngữ… Dưới đây, chúng tôi xin hệ thống hóa những mảng tư liệu phương Tây chính
liên quan đến lịch sử Việt Nam
giai đoạn trung đại và cận đại.
1. Tư liệu Công ty
Đông Ấn Hà Lan thế kỷ XVII - XVIII
Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) được thành lập năm 1602 và tồn
tại đến tận những năm cuối của thế kỷ XVIII. Công ty được nhà nước Cộng hòa Hà
Lan bảo trợ, ban cho nhiều đặc quyền thương mại, ngoại giao… với các quốc gia
Đông Ấn. Ngay sau khi được thành lập năm 1602, Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) đã
liên tục tổ chức những chuyến đi thăm dò đến thương cảng Hội An thuộc Đàng
Trong để thiết lập quan hệ bang giao và buôn bán chính thức với vương quốc họ
Nguyễn. Tuy nhiên, những nỗ lực buôn bán của VOC với Đàng Trong không thu được
kết quả. Vào giữa thập niên 30 của thế kỷ XVII khi tơ lụa Trung Quốc trở nên
khan hiếm trên thị trường trong khi nhu cầu về tơ lụa tại Nhật Bản đang rất
cao, VOC quyết định chuyển hướng chiến lược sang buôn bán với Kẻ Chợ để thu mua
tơ lụa cho thị trường Nhật Bản. Vào thời điểm đó chính quyền Lê/Trịnh cũng đang
tìm cách lôi kéo người Hà Lan đứng về phía mình để tranh thủ sự hậu thuẫn về
quân sự trong cuộc chiến tranh với họ Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1637 thương đoàn
đầu tiên của VOC đến Thăng Long và ngay trong năm sau quan hệ thương mại và
bang giao chính thức của người Hà Lan với chính quyền Đàng Trong kết thúc. Quan
hệ VOC - Đàng Ngoài kéo dài đến tận đầu năm 1700 mới chấm dứt.
Trong suốt thời gian tồn tại, thương điếm Kẻ Chợ được điều
hành bởi khoảng 9 - 14 nhân viên, bao gồm một giám đốc, một thư ký/kế toán giao
dịch, một vài nhân viên kinh doanh, bảo vệ... Các nhân viên này có nghĩa vụ
thực hiện các hoạt động bán hàng hóa nhập khẩu và thu mua các sản phẩm địa
phương để khi tàu của Công ty đến Đàng Ngoài kịp phiên đi Nhật Bản hoặc Batavia (Indonesia).
Trong quá trình lưu trú, viên thư ký có nghĩa vụ ghi chép toàn bộ các hoạt động
của thương điếm, từ việc mua bán sản phẩm, chi phí sinh hoạt hàng ngày... đến
các hoạt động đối ngoại của thương điếm như vào chầu trong cung vua, phủ chúa,
tham dự các buổi tiệc tùng do quan lại Đàng Ngoài tổ chức và mời mọc, các vụ
kiện cáo... Ngoài ra, vào cuối mùa buôn bán hàng năm, viên giám đốc thương điếm
có nghĩa vụ viết một báo cáo chi tiết (trung bình 10 - 20 trang) để gửi về
Batavia - trụ sở chính của VOC tại phương Đông. Ngoài những thông tin về tình
hình xuất nhập khẩu và buôn bán trong năm, các báo cáo này còn mô tả tương đối
chi tiết diễn biến tình hình vương quốc Đàng Ngoài - chủ yếu là các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa diễn ra tại Thăng Long - để Toàn quyền và Hội đồng
Đông Ấn tại Batavia có chiến lược quan hệ với chính quyền Lê/Trịnh trong năm
tiếp theo.
Trong khối di sản đồ sộ khoảng 5 triệu trang tư liệu của
Công ty Đông Ấn Hà Lan, phần tư liệu liên quan đến Kẻ Chợ - Đàng Ngoài chiếm
khoảng hơn 10.000 trang (Đàng Trong có khoảng 2.000 trang). Phần lớn trong số
đó là tài liệu trực tiếp liên quan đến hoạt động của thương điếm Hà Lan tại Kẻ
Chợ. Một số ít là tài liệu gián tiếp, do các thương điếm khác (Zeelandia trên
đảo Đài Loan, Hirado và Deshima ở Nhật Bản, Ayutthaya ở Xiêm, tổng hành dinh
Batavia ở Indonesia) soạn nhưng có liên quan đến tình hình hoạt động của thương
điếm Kẻ Chợ. Những tư liệu này hiện được bảo quản rất tốt tại Lưu trữ Quốc gia
(Nationaal Archief) ở thành phố Den Haag (La Haye), vương quốc Hà Lan.
Điểm khó khăn của việc tập hợp khối tư liệu Hà Lan nằm ở
chỗ các tài liệu liên quan đến Đàng Ngoài chưa được xếp thành tập riêng mà vẫn
bị xếp lẫn với tài liệu của các thương điếm khác (Batavia, Hirado, Deshima,
Zeelandia, Ayutthaya...) trong khi phần lớn các tập tài liệu không được đánh số
trang. Dựa trên nội dung của khối tư liệu, chúng tôi tạm chia các văn bản của
VOC liên quan đến Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thành những dạng sau:
- Overgekomen Brieven en Papieren (Thư từ và Công
văn đến) là nguồn tư liệu tổng hợp, bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực và chiếm vị
trí quan trọng nhất trong nghiên cứu quan hệ giữa VOC với Đại Việt. Overgekomen
Brieven en Papieren về Đại Việt bao gồm công văn từ Toàn quyền và Hội đồng
Đông Ấn báo cáo về Hà Lan và
ngược lại, thư từ gửi từ thương điếm Đàng Ngoài về Batavia, Hà Lan và ngược
lại, bản sao các nghị quyết, danh mục hàng hoá, sổ sách, hợp đồng buôn bán,
nhật ký của các thương nhân của Công ty, thư từ trao đổi giữa các thương điếm,
thư từ ngoại giao giữa công ty với chính quyền Lê - Trịnh...
Đến nay, chúng tôi đã tổ chức sưu tầm được gần 1 vạn trang
tư liệu Overgekomen Brieven en Papieren liên quan trực tiếp đến Đại
Việt. Danh mục tư liệu Overgekomen Brieven en Papieren về các quốc gia
lân cận - những nơi có quan hệ buôn bán với thương điếm của người Hà Lan ở Kẻ
Chợ - như Nagasaki (Nhật Bản), Zeelandia (Đài Loan), Ayutthaya (Xiêm), Batavia
(Indonesia)... cũng có khá nhiều thông tin gián tiếp đến hoạt động của thương
điếm Hà Lan tại Kẻ Chợ. Đây sẽ là nguồn bổ khuyết quan trọng cho những năm mà
tài liệu của thương điếm Hà Lan bị thất lạc.
- Resolutien van Gouverneurs-Generaal en Raden (Nghị
quyết của Toàn quyền và Hội đồng Đông Ấn của Công ty đóng ở Batavia) liên quan
chủ yếu đến chính sách buôn bán và ngoại giao với các nước mà Công ty Đông Ấn
Hà Lan có đặt quan hệ. Trong khối tư liệu này, đến nay đã thống kê được khoảng
gần 50 đầu nghị quyết có liên quan đến các thương điếm của Công ty ở Đại Việt.
- Bataviaasch Uitgaand Briefboek (Công văn gửi đi từ
Batavia) gồm các thư từ ngoại giao gửi đi từ Batavia trong thế kỷ XVII.
Bên cạnh đó là các thông tin phụ khác như yêu cầu về hàng hoá, thông tin về các
thương nhân châu Âu khác ở phương Đông. Trong số những văn bản liên quan đến
các thương điếm ở Đại Việt, một số cũng được sao lại và lưu cùng với các công
văn khác trong khối tư liệu Overgekomen Brieven en Papieren.
- Daghregister gehouden int Casteel Batavia (Nhật ký
kinh doanh của thành Batavia) là bộ tư liệu đồ
sộ do nhân viên của Công ty đóng tại tổng hành dinh Batavia
(Indonesia)
ghi chép và lưu giữ. Bởi Batavia là trung tâm điều phối mọi hoạt động của Công
ty ở Phương Đông, hầu hết các tàu thuyền đều ghé qua Batavia; các văn bản kinh
doanh của các thương điếm cũng được gửi về đây trước khi được tổng hợp thành
báo cáo để gửi về Ban Giám đốc ở Hà Lan. Những thông tin về các khu vực (trong
đó có tình hình hoạt động của thương điếm Kẻ Chợ) đều được ghi chép vắn tắt.
Đến nay, một phần của bộ tư liệu Daghregister gehouden int Casteel Batavia đã
được văn bản hóa thành 31 tập, khởi đầu từ năm 1624 và kết thúc vào năm 1682,
sau 1682 vẫn ở dạng văn bản gốc. Trong số 31 tập trải dài qua 59 năm đó có 14
năm bị thất lạc. Tuy nhiên thông tin vẫn được phản ánh trong các khối tư liệu
khác như Overgekomen Brieven en Papieren.
Daghregister gehouden int Casteel Batavia không chỉ phản ánh hoạt động của tổng
hành dinh Batavia mà còn thống kê số lượng tàu đến Batavia từ các nơi và từ
Batavia đi đến các khu vực kinh doanh, danh mục chi tiết và trị giá các loại
hàng hoá, thư từ ngoại giao giữa Batavia với những chính quyền địa phương mà
Công ty Đông Ấn Hà Lan đặt quan hệ buôn bán... Qua tìm hiểu sơ bộ, chúng tôi đã
sưu tập được khoảng hơn 50 thư từ ngoại giao của chính quyền Lê - Trịnh của
Đàng Ngoài và chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong gửi sang Batavia và ngược
lại. Thư của chúa Trịnh được dịch ra tiếng Hà Lan từ văn bản gốc chữ Hán, một
số dưới dạng tóm lược. Thư của phía Hà Lan gửi sang Kẻ Chợ được sao nguyên bản,
đồng thời được lưu thêm trong khối tư liệu Overgekomen Brieven en Papieren.
- Generale Missiven van Gouverneurs-General en Raden aan
Heren XVII der Verenigde Oostindisch Compagnie (Công văn của Toàn quyền và
Hội đồng Đông Ấn gửi Ban Giám
đốc 17 vị của Công ty ở Hà Lan) được Toàn quyền và Hội đồng Đông Ấn của Công ty
ở Batavia biên soạn hàng năm trên cơ sở thông tin từ các thương điếm của Công
ty để báo cáo về Hà Lan tình hình hoạt động của Công ty ở phương Đông. Tương tự
như khối tư liệu Daghregister gehouden int Casteel Batavia, đến nay,
phần đầu của bộ Generale Missiven (thế
kỷ XVII) đã được văn bản hóa và xuất bản dưới dạng nguyên nghĩa tiếng Hà Lan
cổ. Thông tin trong bộ Generale Missiven rất đa dạng, viết về
nhiều vùng đất khác nhau, từ Nhật Bản sang đến Ba Tư. Phần thông tin về Kẻ Chợ
- Đàng Ngoài qua các năm cũng được đề cập vắn tắt, chủ yếu là những thông tin về
tình hình kinh doanh của thương điếm Kẻ Chợ và quan hệ với Phủ Chúa.
- Beschrijving van de Oost Indische Compagnie (Lược
tả Công ty Đông Ấn Hà Lan) do Piter van Dam, luật gia và sử gia của Công ty,
biên soạn trong thế kỷ XVIII với mục đích đưa ra một mô tả sơ lược về tổ chức
và hoạt động buôn bán của Công ty ở phương Đông. Lịch sử buôn bán của thương
điếm của Công ty ở Kẻ Chợ cũng được mô tả khái quát.
- Nederlands Factorij Japan
(Thương điếm Hà Lan ở Nhật Bản) là bộ tập hợp đồ sộ các văn bản của thương điếm
Hà Lan đóng tại Hirado và Nagasaki
(Nhật Bản) trong các thế kỷ XVII-XIX. Có khá nhiều thông tin về Đàng Ngoài được
phản ánh qua bộ tư liệu này bởi các thương điếm của VOC ở Kẻ Chợ có mối liên hệ
vô cùng chặt chẽ với thương điếm Deshima (Nagasaki) trong hoạt động xuất nhập
khẩu tơ lụa sang Nhật Bản. Do vậy, bộ tư liệu Nederlands Factorij Japan
là nguồn tư liệu quan trọng trong việc bổ khuyết cho những năm tư liệu của
thương điếm Kẻ Chợ bị khuyết thiếu.
- Daghregister Taiwan (Nhật ký kinh doanh của thương
điếm Hà Lan tại đảo Đài Loan) từ năm 1624 đến năm 1662. Đến nay, bộ tư liệu này
đã được văn bản hóa thành 4 tập dưới dạng ngôn ngữ cổ Hà Lan. Bởi thương điếm
Zeelandia trên đảo Đài Loan là một trạm trung chuyển và là mắt xích quan trọng
trong hệ thống buôn bán của Công ty Đông Ấn Hà Lan giữa Đàng Ngoài và Nhật Bản;
tàu thuyền đi lại giữa các nơi thường ghé qua Đài Loan. Do vậy, có khá nhiều
thông tin bổ chú cho tình hình hoạt động của thương điếm Kẻ Chợ được phản ánh
trong bộ Daghregister Taiwan.
- Beschrijvinge van Tonkin en onsen Handel aldaar
(Lược tả vương quốc Đàng Ngoài và hoạt động buôn bán của chúng ta ở đó) là một
chương trong bộ sách 8 tập Oud en Nieuw Oost-Indien của học giả người Hà
Lan Francois Valentijn trong thế kỷ thứ XVIII. Bộ sách này được hoàn thành trên
cơ sở sử dụng nhiều tư liệu của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia nên về mặt sử liệu rất đáng tin cậy.
Trong tập thứ III có một chương mô tả về hoạt động kinh doanh và quan hệ của
Công ty với chính quyền Lê - Trịnh ở Thăng Long - Kẻ Chợ trong thế kỷ XVII.
Chương này cũng trích in một số văn bản gốc của thương điếm Kẻ Chợ (vốn được
tập hợp trong khối Overgekomen Brieven en Papieren).
- Tonkin 1644/1645, Jounaal van de Reis van Anthonio van
Brouckhorst (Đàng Ngoài 1644/1645, Nhật ký hành trình của giám đốc Athonio
van Brouckhorst) là một cuốn sách mỏng được học giả Hà Lan C.C. van der Plas
sao và xuất bản nguyên trạng cổ ngữ Hà Lan vào năm 1955. Cuốn sách là tập hợp
nhật ký chuyến đi của Anthonio van Brouckhorst từ thương điếm Zeelandia (Đài Loan)
sang đến Kẻ Chợ, nơi Ông được bổ nhiệm làm giám đốc quản lý hoạt động kinh
doanh ở Đàng Ngoài. Cuốn sách cũng in kèm một số công văn trao đổi giữa thương
điếm Kẻ Chợ với các thương điếm ở Nhật Bản, Đài Loan và tổng hành dinh Batavia trên đảo Java.
2. Tư liệu Công ty
Đông Ấn Anh thế kỷ XVII
Công ty Đông Ấn Anh (EIC) được thành lập năm 1600 ở Luân
Đôn. Công ty được nữ hoàng Anh Elizabeth ban cho độc quyền buôn bán với phương
Đông. Tuy nhiên, trong nửa đầu thế kỷ XVII, Công ty không thể cạnh tranh được
với thế lực Hà Lan hùng mạnh. Từ thập niên 60 của thế kỷ XVII Công ty Đông Ấn
Anh chủ trương cải tổ lại hoạt động ở Đông Á. Bị hấp dẫn bởi lợi nhuận cao mà
Công ty Đông Ấn Hà Lan thu được từ hoạt động buôn bán tơ lụa Đàng Ngoài sang
Nhật Bản trong nhiều năm trước đó, vào năm 1672, Công ty Đông Ấn Anh quyết định
mở quan hệ buôn bán với Đàng Ngoài. Tuy nhiên, mục tiêu thương mại của EIC với
miền bắc Việt Nam không thành công bởi thái độ thiếu tính hợp tác của triều
đình Lê-Trịnh cũng như việc EIC thất bại trong việc tái thiết lập quan hệ với
Nhật Bản. Chiến lược buôn bán của người Anh với Đàng Ngoài vì thế bị thay đổi
căn bản: từ việc hoạch định Đàng Ngoài là nguồn cung cấp sản phẩm tơ lụa cho
Nhật Bản, EIC buộc phải đưa sản phẩm Đàng Ngoài về châu Âu tiêu thụ. Mặc dù
vậy, EIC vẫn duy trì quan hệ thương mại với Đàng Ngoài đến tận năm 1697.
Do không được chính quyền Lê/Trịnh ủng hộ, người Anh phải
đặt thương điếm tại Phố Hiến từ 1672 đến 1683, sau đó mới được chuyển lên Thăng
Long (1683 - 1697). Tuy nhiên, mặc dù phải đặt thương điếm tại Phố Hiến trong
khoảng 10 năm đầu, người Anh hàng năm đều tìm cách lên kinh đô Kẻ Chợ thuê nhà
để buôn bán trong mùa mậu dịch. Vì vậy, phần lớn nội dung tư liệu phản ánh về
kinh đô Thăng Long.
Tài liệu của thương điếm Anh tại Phố Hiến và Kẻ Chợ hiện
nay còn hơn 1.005 trang và
đang được bảo quản rất cẩn thận tại Thư viện Quốc gia Anh (British Library) ở
Luân Đôn, vương quốc Anh. Nhìn tổng thể, 1.005 trang tài liệu hiện còn được
phân thành hai giai đoạn riêng biệt. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ năm 1672 đến
năm 1683, khi người Anh đặt thương điếm tại Phố Hiến. Giai đoạn thứ hai bắt đầu
từ mùa hè năm 1693 đến cuối năm 1697. Đây là giai đoạn người Anh định cư chính
thức và kinh doanh ngay tại kinh đô Kẻ Chợ. Tài liệu của thương điếm trong giai
đoạn 1683 - 1693 bị khuyết.
Khác với sự đa dạng về mặt loại hình văn bản của khối tài
liệu Công ty Đông Ấn Hà Lan, tài liệu của Công ty Đông Ấn Anh về Kẻ Chợ–Đàng
Ngoài có kết cấu khá đơn giản nhưng vô cùng phong phú về thông tin. Toàn bộ
khối tư liệu hiện còn là một bộ nhật ký kinh doanh của thương điếm Anh (ở Phố
Hiến và Kẻ Chợ), ghi chép những sự kiện diễn ra hàng ngày, xen lẫn vào đó là
các bản quyết nghị của Hội đồng thương điếm, thư và đơn thỉnh nguyện gửi lên
các Chúa Trịnh, báo cáo tình hình hoạt động của thương điếm gửi về Bantam,
Madras và Luân Đôn... Theo phân loại và sắp xếp của Thư viện Anh, tư liệu Công
ty Đông Ấn Anh về Đàng Ngoài có thể được phân thành các đầu mục sau:
- G/12/17-1, Tonqueen Journall Register, from
25/12/1672 - 07/12/1672, fos. 1-58.
- G/12/17-2, W. Gyfford’s Journall at Tonqueen, from
13/12/1672 - 28/6/1676, fos. 59-149.
- G/12/17-3, Tonqueen Journall Register, from
29/6/1676 - 26/6/1677, fos. 150-200.
- G/12/17-4, Diary and Consultations of T. James and W.
Keeling, from 06/6/1677 - 24/6/1678, fos. 201-224.
- G/12/17-5, Tonqueen Journall Register, from
02/7/1678 - 28/5/1679, fos. 225-251.
- G/12/17-6, Tonqueen Journall Register, from
1/6/1679 - 31/5/1680, fos. 252-273.
- G/12/17-7, Tonqueen Letters of Consultations, from
15/12/1681 - 28/7/1682, fos. 274-288.
- G/12/17-8, Diary and Consultations of W. Hodges,
from 29/7/1682 - 26/8/1683, fos. 289-315.
- G/12/17-9, Tonqueen Diary and Consultations, from
13/5/1693 - 29/7/1697, fos. 316-479.
- G/12/17-10, Tonqueen Diary and Consultations, from
27/7/1697 - 30/11/1697, fos. 480-503.
Đối với giai đoạn tài liệu thương điếm bị thất lạc (từ 26/8/1683
đến 13/5/1693), một số thông tin liên quan có thể được trích lược từ bộ Hồ sơ
Java 7. Trong quá trình làm việc tại Thư viện Anh trong những năm vừa qua, một
số cán bộ giảng dạy của Khoa Lịch sử đã thu lượm được một số lượng lớn các
thông tin liên quan đến thương điếm Anh ở Kẻ Chợ giai đoạn 1683-1693 thông qua
các công văn trao đổi giữa Ban Giám đốc Công ty ở Luân Đôn với các Hội đồng
thương điếm ở phương Đông như Bombay, Madras (Ấn Độ), Benculen (Indonesia),
Ayutthaya (Xiêm)... (ký hiệu lần lượt là E-3-87; E-3-88; E-3-99; E-3-90;
E-3-91; E-3-92) hiện đang được lưu trữ tại Phòng Ấn Độ và Phương Đông thuộc Thư
viện Quốc gia Anh (Luân Đôn). Trong một số năm, tình hình kinh doanh của thương
điếm Anh tại Đàng Ngoài được phản ánh khá cụ thể. Những nguồn tư liệu gián tiếp
này góp phần quan trọng vào việc phục dựng lại bức tranh toàn cảnh về hoạt động
của Công ty Đông Ấn Anh ở vương quốc Đàng Ngoài trong suốt giai đoạn 1672 -
1697.
3. Tư liệu của các
giáo đoàn Bồ Đào Nha, thế kỷ XVI - XVII
Sau các phát kiến địa lý có tính bước ngoặt của người Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ XV, người các thương đoàn và giáo đoàn
châu Âu lần lượt tiến sang phương Đông để tiến hành buôn bán và truyền giáo. Từ
cuối thế kỷ XVI, thương nhân Bồ Đào Nha và các giáo sĩ thuộc các dòng Tên, Đa
Minh, Francius… đã đến Đại Việt. Sang thế kỷ XVII, người Hà Lan, Anh, Pháp…
cũng hoạt động hết sức tích cực ở Đại Việt. Một lượng lớn tư liệu về Đại Việt
nói chung đã được ghi chép và lưu trữ tại các văn khố lớn ở châu Âu:
Nhóm tư liệu liên quan đến các giáo đoàn Bồ Đào Nha hiện
đang được lưu giữ chủ yếu tại Lưu trữ Quốc gia Lisbon (Bồ Đào Nha) và một phần
ở Madrid (Tây Ban Nha) và Tòa thánh Vatican (Ý)... Trong Hội thảo về Bồ Đào Nha
tại Viện Nghiên cứu Hàn Lâm Hà Lan (NIAS) năm 2002, Giáo sư Da Costa của Đại
học Lisbon cho biết Ông đã tìm và đọc một số văn bản của các giáo sĩ dòng Tên
viết về vương quốc Đàng Ngoài (Tonkin) và Đàng Trong (Cochinchina) giai đoạn
cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII. Ông cho biết thêm một số lượng nhất định các
văn bản của giáo hội liên quan đến Việt Nam hiện đang được bảo quản khá tốt tại
Tòa thánh Vatican và có thể một số khác đang nằm ở văn khố quốc gia Tây Ban Nha
ở Madrid. Số lượng văn bản - theo giáo sư Da Costa - có thể lên đến hàng nghìn
trang viết tay liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến Đại Việt.
4. Khối tư liệu Pháp
ngữ
Trong tương quan với các Công ty Đông Ấn khác như Hà Lan và
Anh, quan hệ của Công ty Đông Ấn Pháp (CIO) với Đại Việt trong giai đoạn cuối
thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII không thật sự nổi bật. Tuy nhiên, điểm khác
biệt của người Pháp là cùng với sự thành lập Công ty Đông Ấn, Hội truyền giáo
hải ngoại Paris (MEP) cũng được thành lập để hoạt động song song với Công ty ở
phương Đông. Chính vì vậy, hoạt động của người Pháp ở Đại Việt chỉ thực sự bắt
đầu từ khoảng thập niên 60 của thế kỷ XVII nhưng lại kéo dài qua suốt thế kỷ
XVIII sang đến giữa thế kỷ XIX. Sau khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng
(1858) và lần lượt chiếm đóng Nam Kỳ và toàn lãnh thổ Việt Nam, số lượng tư liệu của chế độ
thuộc địa cũng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Trong suốt giai đoạn từ cuối thế
kỷ XIX - khi Pháp bình định xong Việt Nam - đến Cách mạng tháng Tám năm 1945,
tư liệu lưu trữ Pháp là sử liệu chính để tìm hiểu về mọi mặt của xã hội Việt
Nam thời kỳ cận đại. Cho đến nay, dù chưa có những thống kê cụ thể về số lượng
tư liệu Pháp về Việt Nam, khối lượng đồ sộ nói trên chắc chắn sẽ là nguồn bổ
sung vô cùng quan trọng cho việc tìm hiểu về quá khứ của dân tộc thời kỳ cận
đại. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các học giả Pháp (Philippe
Papin, Emanuel Poisson, Patrick Tuck, Milton Osborne…) và Việt Nam (Phạm Cao
Dương, Nguyễn Văn Khánh, Tạ Thị Thúy…). Việc hệ thống danh mục tư liệu, triển
khai sưu tầm và khai thác các khối tư liệu Pháp ngữ về Việt Nam có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng, không chỉ với việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam mà còn
góp phần thiết thực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của nước
ta hiện nay.
5. Khối tư liệu Mỹ
liên quan đến Việt Nam
hiện đại
Sự quan tâm của người Mỹ về Việt Nam đã diễn ra từ đầu thế
kỷ XIX khi thuyền trưởng John White và thủy thủ đoàn cập cảng Đà Nẵng. Tuy
nhiên, sự quan tâm một cách quy mô của nước Mỹ đối với Việt Nam chỉ diễn ra từ
khoảng trước sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là từ khi Mỹ can thiệp
trực tiếp vào Việt Nam và Đông Dương. Không chỉ công luận mà giới nghiên cứu Mỹ
cũng dành nhiều sự chú ý đến Việt Nam; một số trung tâm nghiên cứu đã ra đời
nhằm phục vụ cho chiến lược của Mỹ ở Việt Nam và Đông Nam Á. Sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc, các trung tâm nghiên cứu và các kho lưu trữ được sát
nhập lại. Hiện nay, nói đến trung tâm lưu trữ lớn nhất của Mỹ về Việt Nam, người ta thường nhắc đến Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas.
Trung tâm Việt Nam của Đại học Công nghệ Texas được thành
lập năm 1989 theo ý tưởng của một nhóm cựu chiến binh Mỹ nhằm lưu giữ tư liệu
cũng như ký ức của người Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Trung tâm có sứ mệnh hỗ
trợ và khuyến khích nghiên cứu và đào tạo liên quan đến kinh nghiêm của người Mỹ
ở Việt Nam, cũng như tìm hiểu văn hóa và lịch sử của các dân tộc ở Đông Nam Á.
3 mục tiêu của Trung tâm là: 1. Hỗ trợ sưu tầm và bảo quản tư liệu về Việt Nam;
2. Phát triển giáo dục thông qua trưng bày, hướng dẫn học, các chương trình
giáo dục và xuất bản; 3. Chủ trương tổ chức các hội thảo, hội nghị khoa học,
hoạt động trao đổi văn hóa và hoạt động xuất bản…
Thư viện và lưu trữ của Trung tâm Việt Nam thuộc Đại học Công nghệ Texas
có sứ mệnh thu thập và bảo quản tư liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Đến
nay Trung tâm đang bảo quản hàng triệu trang tư liệu và hàng vạn tranh ảnh, bản
đồ, tạp chí, phim, âm thanh, sách… liên quan đến chiến tranh Việt Nam và
Đông Dương.
Hiện nay Trung tâm đang thực hiện một số dự án đặc biệt
nhằm tiếp tục tìm kiếm thêm tư liệu để bảo quản và phục vụ các đối tượng nghiên
cứu, bao gồm dự án dành cho các cựu chiến binh, sự án nghiên cứu về di sản Việt
Nam - Hoa Kỳ, dự án xây dựng trang web dành cho giáo dục, dự án liên quan đến
hải quân (hiện vật, nhật ký, tranh ảnh, bản đồ hàng hải…), dự án lịch sử truyền
miệng và tài liệu kỹ thuật số (xây dựng lưu trữ ảo trên mạng)…
Khối tư liệu của người Mỹ về Việt Nam hiện đại chắc chắn lưu trữ
những thông quan quan trọng về thủ đô nên cũng cần được quan tâm khảo sát và
nghiên cứu trong thời gian tới.
6. Một số nguồn tư
liệu phương Tây khác về Việt Nam
thời hiện đại
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, một số quốc
gia phương Tây khác cũng có những khối tư liệu lưu trữ đặc biệt về Việt Nam.
Trong số các quốc gia đó có thể kể đến Liên Xô (Nga), Úc và Đức. Cho đến nay,
những tư liệu lưu trữ quý hiếm về Việt Nam đã từng bước được công bố. Nhiều
nghiên cứu mới đã được triển khai trên cơ sở những nguồn tư liệu mới. Bên cạnh
những tư liệu của giai đoạn hiện đại, một số tư liệu và bản đồ liên quan đến
Việt Nam gian đoạn trước năm 1945 cũng được cất giữ tại đây. Vì vậy, việc tổ
chức điều tra, hệ thống hóa và sưu tầm tư liệu lưu trữ của Đức, Úc và Nga về
Việt Nam
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
7. Hiện trạng khai
thác và triển vọng nghiên cứu
Cho đến nay, trong khuôn khổ chương
trình điều tra, sưu tầm tài liệu thuộc đề án “Điều tra, sưu tầm, biên soạn và
xuất bản tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến” do Nhà xuất bản Hà Nội tổ chức
thực hiện, nhóm khảo sát đã thu thập được gần như trọn vẹn các khối tư liệu gốc
của hai Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh liên quan trực tiếp đến Kẻ Chợ - Đàng
Ngoài trong thế kỷ XVII. Trên cơ sở thống kê và lập danh mục, nhóm điều tra đã
tổ chức sao chụp (scan) được hơn 9.000 trang tư liệu của thương điếm Hà Lan tại
Kẻ Chợ (từ khối văn bản Overgekomen Brieven en Papieren) và 1.005 trang
từ khối tư liệu của thương điếm Anh tại Phố Hiến và Kẻ Chợ. Sau khi sưu tầm
được tư liệu, các nhà nghiên cứu đã khẩn trương tổ chức tuyển dịch và giới
thiệu các khối tư liệu trên nhằm phục vụ xuất bản trong khuôn khổ tủ sách
“Thăng Long ngàn năm văn hiến”. Kết quả sưu tầm và nghiên cứu được thể hiện
trong cuốn sách Tư liệu các Công ty Đông
Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVII (hơn 750 trang) do Nhà
xuất bản Hà Nội ấn hành tháng 8 năm 2010.
Mặc dù tương đối dày dặn, cuốn sách Tư liệu các Công ty Đông Ấn Hà Lan và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế
kỷ XVII cũng mới chỉ giới thiệu được một phần rất nhỏ nội dung phong phú
của hai khối tư liệu trên. Đối với phần tư liệu Hà Lan, các soạn giả chỉ mới tổ
chức chắt lọc và giới thiệu những thông tin chính diễn ra ở Kẻ Chợ - Đàng Ngoài
như: thiên tai, địch họa, các sự kiện cung đình, tình hình sản xuất, hoạt đông
xuất nhập khẩu… Do giới hạn về thời gian và thời lượng cuốn sách, các soạn giả
chưa có điều kiện đi sâu phân tích chi tiết các vấn đề khác nhau của kinh tế,
xã hội, chính trị, văn hóa, tín ngưỡng của kinh đô Thăng Long được phản ánh hết
sức sôi động trong khối tư liệu tương đối đồ sộ của thương điếm Hà Lan. Tương
tự, hơn 1.000 trang nhật ký viết tay của thương điếm Anh cũng chỉ mới được lược
dịch hoặc giới thiệu nội dung vắn tắt tới độc giả. Rất nhiều báo cáo chi tiết
về tình hình kinh tế - xã hội của kinh đô Thăng Long hoặc các thư từ ngoại giao
giữa chính quyền Lê - Trịnh với các thế lực phương Tây (Anh, Hà Lan…) vẫn chưa
được khai thác triệt để.
Bên cạnh đó, các nguồn tư liệu phương Tây khác như khối tư
liệu Pháp ngữ (xuyên suốt thời trung đại và cận đại) vẫn chưa được hệ thống hóa
và khai thác triệt để. Khối tư liệu thời kỳ hiện đại của Mỹ, Úc, Đức, Liên Xô…
về Việt Nam chắc chắn chứa đựng những thông tin quan trọng về thủ đô Hà Nội và
cũng cần được quan tâm sưu tầm và nghiên cứu. Qua gần một thập kỷ tìm hiểu về
các nguồn tư liệu phương Tây cũng như hơn 2 năm tiến hành sưu tầm và tuyển dịch
tư liệu trong khuôn khổ đề án “Điều tra, sưu tầm, biên soạn và xuất bản tủ sách
Thăng Long ngàn năm văn hiến”, chúng tôi xin có một số kiến nghị sau đây:
1. Đối với khối
tư liệu Hà Lan và Anh liên quan đến Kẻ Chợ - Đàng Ngoài cuối thời trung đại đã
được sưu tầm: cần tiếp tục triển khai nghiên cứu chuyên sâu để làm nổi bật lịch
sử kinh đô thế kỷ XVII, nhất là về vị trí và vai trò của Thăng Long - Kẻ Chợ
trong quá trình hội nhập toàn cầu của quốc gia Đại Việt từ cuối thế kỷ XVI đến
đầu thế kỷ XVIII:
- Khối tư liệu hơn 9.000 trang của Công ty Đông Ấn Hà Lan
về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài cần được tổ chức tuyển dịch quy mô hơn. Việc tuyển dịch
có thể được phân chia thành các phần cụ thể: văn bản ngoại giao, văn bản thương
mại, nhật ký thương điếm, các ghi chép cá nhân…
- Khối tư liệu hơn 1.000 trang của Công ty Đông Ấn Anh cần
được tổ chức dịch toàn bộ. Trong khi các nhà sử học đã đầu tư nghiên cứu Công
ty Đông Ấn Hà Lan tường đối công phu, hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh ở Kẻ
Chợ và Đàng Ngoài vẫn chưa được quan tâm và đến nay - ngoại trừ một vài bài
viết riêng lẻ - chưa có một công trình nghiên cứu mang tính tổng kết dưới dạng
một ấn bản phẩm độc lập. Vì vậy, việc tổ chức dịch hoặc nghiên cứu chuyên sâu
về Công ty Đông Ấn Anh nên được đặt ra một cách cấp thiết. Trong trường hợp
chưa thể tiến hành nghiên cứu chuyên sâu, có thể tiến hành dịch những báo cáo
chi tiết của thương điếm Anh về tình hình Kẻ Chợ - Đàng Ngoài qua các năm.
2. Như đã trình
bày ở phần đầu, một số lượng tương đối lớn tư liệu của các thương điếm Hà Lan
và Anh đóng tại Nhật Bản, Đài Loan, Xiêm, Batavia… có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến thương điếm Hà Lan và Anh ở Kẻ Chợ - Đàng Ngoài cũng nên được
tiến hành sưu tầm nhằm hoàn thiện chương trình xây dựng hệ thống tư liệu của
các Công ty Đông Ấn phương Tây về kinh đô Kẻ Chợ và Đàng Ngoài thời trung đại,
phục vụ nghiên cứu lâu dài.
3. Khối tư liệu
Pháp ngữ, tư liệu của các giáo đoàn châu Âu (Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha…) cũng
nên được điều tra và sưu tầm sớm nhằm phục vụ nghiên cứu tổng thể về Thăng Long
- Hà Nội trong thời gian tới. Tương tự, chúng ta cũng nên lập chương trình điều
tra và sưu tầm (có chọn lọc) khối tư liệu phương Tây hiện đại liên quan đến
Việt Nam nói chung, thủ đô Hà Nội nói riêng, hiện đang được lưu trữ tại các thư
viện hoặc trung tâm nghiên cứu lớn tại Hoa Kỳ, Đức, Úc… Đối với phương thức sưu
tầm (thu mua) tư liệu, trên cơ sở những kinh nghiệm đã có, chúng tôi xin đề
xuất một số giải pháp như sau:
a. Sao chụp tư liệu
vào microfilm: Sau khi chuyển tư liệu vào phim, cần trang bị một số máy đọc
(Microfilm Reader) và máy in (Microfilm Printer).
b. Scan văn bản ra
giấy A4 hoặc A3: Phương pháp phổ thông, thuận lợi, nhưng không thích hợp
với việc bảo quản lâu dài.
c. Scan văn bản vào
đĩa CD hoặc DVD: Tài liệu có thể được lưu trữ lâu dài trong các đĩa compact
hoặc trong máy vi tính, và có thể được in ra dễ dàng thông qua các loại máy in
thông dụng; Chất lượng văn bản khi scan lên đĩa compact thường cao hơn khi scan
trực tiếp ra giấy (nhất là các giấy viết thế kỷ XVII-XVIII-XIX thường có màu
nâu đậm); Độc giả có thể phóng to ảnh trên màn hình vi tính để đọc văn bản dễ
dàng nếu chữ viết tay của văn bản đó không rõ (nếu in ra giấy A4 thì khi đọc
không thể khắc phục được). Tuy nhiên, xét về sự bền bỉ thì sao in trên đĩa CD
và DVD nhìn chung không so sánh được so với việc chuyển thành microfilm.
4. Là đơn vị đã thực hiện thành công đề án “Điều tra, sưu tầm, biên soạn và xuất bản tủ
sách Thăng Long ngàn năm văn hiến”, Nhà xuất bản Hà Nội nên được tiếp tục
giao nhiệm vụ triển khai các nhiệm vụ liên quan đến sưu tầm, biên soạn và xuất
bản các công trình liên quan đến Hà Nội trên cơ sở khai thác các nguồn tư liệu
trong và ngoài nước, trong đó có các nguồn tư liệu phương Tây.
Charles B. Maybon, “Une
Factorerie Anglaise au Tonkin au XVIIe siècle (1672-1697)”, BEFEO X
(1910).
Willem J.M. Buch, “La Compagnie des Indes Néerlandaises
et l’Indochine”, BEFEO XXXVI (1936) & XXXVII (1937).
Pierre-Yves Manguin, Les
Portugais sur les côtes du Viêt-Nam et du Campa (Paris: École Française
d’Extrême-Orient, 1973).
Tiêu biểu trong số các báo cáo khoa học nói trên là:
Nguyen Quang Ngoc, “Some Features on the Dutch East India Company and Its Trade
Office at Pho Hien” và Anthony Farrington, “English East India Company
Documents Relating Pho Hien and Tonkin”, trong: Phố Hiến: The Centre of International Commerce in the
17th-18th Centuries (Hanoi: The Gioi Publishers, 1994); Leonard Blussé, “The Dutch
East India Company in Quinam and Tonkin and the Dutch Contribution to the Asian
Maritime Trade” và Truong Van Binh and John
Kleinen, “Verenigde Oost Indische Compagnie (VOC): Materials
on Relations between the Dutch East India Company and the Nguyen Lords in the
17th and 18th Centuries”, trong: Ancient Town of Hội An
(Hanoi: The Gioi Publishers, 1993).
Trong số những nghiên cứu được hoàn thành trong khuôn
khổ chương trình TANAP, có thể kể đến cuốn chuyên khảo của Hoang Anh Tuan, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations,
1637-1700 (Leiden-Boston: Brill, 2007).
Cách đánh số truyền thống tại một số thư viện và lưu
trữ ở châu Âu là theo tờ, mỗi tờ gồm có 2 trang, trang trước thường được ký
hiệu là “r” và trang sau thường được
ký hiệu là “v”. Khối tư liệu Anh
hiện nay có 503 tờ, hoặc 1005 trang.
Nhà xuất bản Hà Nội